Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên cấp trung học cơ sở môn Ngữ văn
Việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá được Bộ
Giáo dục và Đào tạo(GDĐT) triển khai rộng rãi ởcác trường trung học từnăm học
2002-2003 nhưng nhìn chung kết quảvẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục.
Nghịquyết số29-NQ/TW Hội nghịlần thứ8 Ban chấp hành Trung ương
khóa XI đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽphương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹnăng của người học; khắc phục lối truyền thụáp đặt một chiều, ghi nhớmáy
móc. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan”. Trong những năm qua, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã tập trung chỉ đạo nhằm tạo ra sựchuyển biến cơbản về
tổchức hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục trong các trường trung học. Tại công văn số5466/BGDĐT-GDTrH ngày
07 tháng 8 năm 2013 Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụGiáo dục Trung học năm học
2013-2014,BộGiáo dục và Đào tạo nêu rõ: “Các hình thức kiểm tra, đánh giá đều
hướng tới phát triển năng lực của học sinh; Đối với các môn khoa học xã hội và
nhân văn cần tiếp tục nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tăng
cường ra các câu hỏi mở, gắn với thời sựquê hương đất nước đểhọc sinh được bày
tỏchính kiến của mình vềcác vấn đềkinh tế, chính trị, xã hội”.
ây: Câu hỏi 1: Tại sao bài báo lại đề cập tới cái chết của Kiyoteru Okouchi? …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………. Câu hỏi 2: Tỉ lệ giáo viên ở mỗi cấp học không biết về việc học sinh của mình đang bị bắt nạt? Khoanh tròn vào đáp án (A, B, C hoặc D) thể hiện đúng nhất. A B 25 010 20 30 40 50 Tiểu học THCS THPT 0 20 40 60 80 100 Tiểu học THCS THPT C D 0 5 10 15 20 25 30 Tiểu học THCS THPT 0 10 20 30 40 50 Tiểu học THCS THPT Ghi chú: Cột dọc thể hiện tỉ lệ % giáo viên không biết về bắt nạt. (…) - Ngoài những câu hỏi về nội dung, thông tin … trong văn bản, đề thi PISA còn có những câu hỏi mở, đưa ra những tình huống trong cuộc sống để học sinh thể hiện quan điểm cá nhân, yêu cầu các em phải suy ngẫm, đưa ra quan điểm, nhận xét, ý kiến của cá nhân, phải phân tích sâu, thuyết phục. - PISA thực sự chú trọng tới việc phát triển năng lực, kĩ năng cho học sinh hơn là mục tiêu thưởng thức văn chương nghệ thuật. Kỳ thi PISA yêu cầu học sinh phải có những năng lực tổng hợp. Ngoài phần thi ở lĩnh vực Toán học và Khoa học, học sinh phải trải qua phần Đọc hiểu với những kỹ năng, hiểu biết về các văn bản hành chính, văn học nghệ thuật, văn bản khoa học, toán học...Do đó, đề thi PISA đánh giá được năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh. Đó không chỉ là một yêu cầu trong suốt thời kỳ trẻ thơ ở nhà trường phổ thông mà nó còn trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến thức, kỹ 26 năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn. - Nhận thức rõ những ưu điểm của PISA, hiện nay, Bộ GD&ĐT đang có chủ trương vận dụng PISA trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh để góp phần cải tiến chất lượng giáo dục phổ thông, chú trọng đến khả năng tư duy, lập luận của học sinh, giúp các em gắn kiến thức học tập trong nhà trường vào giải quyết các vấn đề ngoài cuộc sống. Vận dụng PISA trong việc xây dựng câu hỏi, đề thi: Các câu hỏi, đề kiểm tra của PISA bao gồm hai phần: trắc nghiệm và tự luận. Do đó, vận dụng Pisa trong việc xây dựng đề thi, Vận dụng PISA trong việc đánh giá bài thi: Giúp giáo viên đổi mới cách đánh giá bài làm của học sinh. Trước đây, chúng ta chỉ chú trọng kiến thức trong văn bản nhưng học tập PISA, sẽ chú trọng đánh giá cách tư duy của học sinh, kỹ năng giải quyết các vấn đề đặt ra, cho phép học sinh được thể hiện, bày tỏ các quan điểm cá nhân, tránh đánh giá theo lối mòn, đơn chiều, phát huy được năng lực sáng tạo, cảm thụ văn bản của bản thân. Đối với môn Ngữ văn, việc vận dụng PISA trong việc đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản (chủ yếu là văn bản nghệ thuật và văn bản nhật dụng) của học sinh là yêu cầu hợp lý, khoa học, đúng đắn để đáp ứng các yêu cầu của môn học, đồng thời gợi tình cảm tích cực của học sinh đối với môn Văn, giúp các em nhanh chóng hòa nhập với giáo dục quốc tế. 4. Kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực HS 4.1. Khái niệm đánh giá năng lực Hiện nay có 2 hướng tiếp cận chính về đánh giá kết quả học tập: - Đánh giá dựa theo chuẩn KT, KN - Đánh giá theo dịnh hướng nănglực. 27 Cách đánh giá thứ nhất thiên về mức độ tiếp nhận nội dung chương trình môn học, cách đánh giá thứ hai thiên về xác định các mức độ năng lực của cá nhân HS so với mục tiêu của môn học. Theo quan điểm phát triển năng lực HS, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá mà chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của HS. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil, 2011). Xét về bản chất, không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá KT, KN; mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá KT, KN. Để chứng minh HS có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho HS được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó HS vừa phải vận dụng những KT, KN đã được học ở nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội). Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kỹ năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá KT, KN của HS như sau: Tiêu chí so sánh Đánh giá năng lực Đánh giá kiến thức, kỹ năng 28 1. Mục đích chủ yếu nhất - Đánh giá khả năng HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của cuộc sống. - Vì sự tiến bộ của người học so với chính họ. - Xác định việc đạt kiến thức, kỹ năng theo mục tiêu của chương trình giáo dục. - Đánh giá, xếp hạng giữa những người học với nhau. 2. Ngữ cảnh đánh giá Gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn cuộc sống của HS. Gắn với nội dung học tập (những kiến thức, kỹ năng, thái độ) được học trong nhà trường. 3. Nội dung đánh giá - Những kiến thức, kỹ năng, thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt động giáo dục và những trải nghiệm của bản thân HS trong cuộc sống xã hội (tập trung vào năng lực thực hiện). - Quy chuẩn theo các mức độ phát triển năng lực của người học. - Những kiến thức, kỹ năng, thái độ ở một môn học. - Quy chuẩn theo việc người học có đạt được hay không một nội dung đã được học. 4. Công cụ đánh giá Nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh thực. Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong tình huống hàn lâm hoặc tình huống thực. 5. Thời điểm đánh giá Đánh giá mọi thời điểm của quá trình dạy học, chú trọng đến đánh giá trong khi học. Thường diễn ra ở những thời điểm nhất định trong quá trình dạy học, đặc biệt là trước và sau khi dạy. 6. Kết quả đánh giá - Năng lực người học phụ thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc bài - Năng lực người học phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ 29 tập đã hoàn thành. - Thực hiện được nhiệm vụ càng khó, càng phức tạp hơn sẽ được coi là có năng lực cao hơn. hay bài tập đã hoàn thành. - Càng đạt được nhiều đơn vị kiến thức, kỹ năng thì càng được coi là có năng lực cao hơn. 4.2. Các phương pháp và hình thức đánh giá Căn cứ quá trình tổ chức dạy học, có các hình thức đánh giá: đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết. Căn cứ qui mô tổ chức hoạt động đánh giá, có các hình thức đánh giá: đánh giá trên lớp học và đánh giá trên diện rộng. Đánh giá quá trình (thường xuyên):Đánh giá quá trình được thực hiện qua việc quan sát, qua các yêu cầu dược nêu ra để đánh giá hoạt động của cả lớp và của mỗi HS nhằm giúp GV điều chỉnh cách dạy và HS điều chỉnh cách học. Đánh giá thường xuyên có thể thực hiện bằng hình thức kiểm tra vấn đáp hoặc kiểm tra viết (kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút). Đánh giá tổng kết: Đánh giá tổng kết được thực hiện sau khi học xong một chương, một phần của chương trình hoặc sau một học kì, một năm học, một cấp học. Việc kiểm tra này có thể bao quát một mạch nội dung của môn học hoặc một chủ điểm, một giai đoạn học tập; có ý nghĩa hỗ trợ rất lớn đến việc triển khai các bước tiếp theo của quá trình học tập. Do vậy, khi biên soạn đề kiểm tra, GV cần phân tích kĩ nội dung chương trình, xác định những kiến thức vàkĩ năng trọng tâm của chương trình vừa học để xây dựng ma trận đề hợp lí. Khi đánh giá kết quả học tập của HS, GV thu nhận những thông tin về năng lực của HS, theo dõi sự tiến bộ của từng HS để phân loại, sắp xếp HS vào các chương trình giáo dục tiếp theo. Bên cạnh phối hợp các loại hình kiểm tra để đánh giá được tiến hành liên tục, cần tăng cường các hình thức đánh giá khác nhau: các bài luyện nói trước 30 tập thể, các hoạt độngNgữ văn, các bài tập nghiên cứu nhỏ,… để đánh giá năng lực học tập của HS một cách toàn diện. 4.3. Đánh giá năng lực đọc và viết trong môn Ngữ văn: 4.3.1. Kiểm tra đánh giá kĩ năng đọc hiểu của HS: Hiện nay, tình trạng GV “đọc thay”, “hiểu thay”, “cảm thụ hộ” HS khá phổ biến khiến cho giờ học biến thành giờ HS nghe và ghi chép lại lời giảng của GV; và việc kiểm tra, thi chủ yếu kiểm tra việc nhắc lại, chép lại lời của GV hoặc chép lại bài văn mẫu; nên chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu của HS. Vì vậy, đổi mới kiểm tra đánh giá kĩ năng đọc hiểu của HS cần đưa vào những văn bản mới có cùng đề tài, chủ đề hoặc thể loại với văn bản đã học trong chương trình; yêu cầu HS vận dụng kiến thức và kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu văn bản mới, các câu hỏi này được thiết kế theo cách làm của PISA với các dạng câu hỏi: - Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn kiểu đơn giản - Câu hỏi Đúng/Sai hoặc Có/Không phức hợp - Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn - Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài - Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời ngắn - Câu hỏi yêu cầu học sinh dùng lập luận để thể hiện việc đồng tình hay phản đối - Câu hỏi yêu cầu học sinh lập luận và suy nghĩ một cách logic dựa trên tình huống thực tế… 4.3.2. Kiểm tra đánh giá kĩ năng viết của HS:
File đính kèm:
- TAI LIEU BDTX NGU VAN THCS 2014.pdf