Sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập Đảng ta - đã thấy phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới thành công.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh mà trưởng thành".
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực hiện mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
g là cơ sở của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng ta và đồng chí Nguyễn ái Quốc đánh giá đúng sức mạnh của yếu tố dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lập mặt trận đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại... Sử dụng sức mạnh bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc đấu tranh giải phóng. Vận dụng sáng tạo quy luật ấy, Đảng ta cho rằng: "Bạo lực cách mạng nhằm lật đổ giai cấp thống trị nhất thiết phải là bạo lực của quần chúng". Mặc dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song khái quát chung lại, "bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy". Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, đó là quy luật phổ biến. ở Việt Nam trong cuộc vận động thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong các tổ chức yêu nước, và dựa vào đó, thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - tổ chức tiền thân của Đảng. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Để vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, cần chống bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm. Nguồn gốc của chủ nghĩa kinh nghiệm là trình độ lý luận thấp và hiểu biết thực tiễn không sâu. Còn nguồn gốc của chủ nghĩa giáo điều là nắm lý luận một cách sách vở và rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, không chú ý đầy đủ đến đặc điểm dân tộc. 3. Bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể, giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể Trong lãnh đạo cách mạng, điều quan trọng hàng đầu là vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn. Kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta chỉ rõ: đường lối chiến lược đúng bảo đảm cho cách mạng phát triển thuận lợi, vững vàng trong mọi tình huống, đoàn kết được nội bộ, do đó mà cách mạng chắc chắn thành công. Song nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi phải cụ thể hoá đường lối thành chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện, phải đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt, bước đi, hình thức tổ chức, phương pháp tiến hành cụ thể. Kinh nghiệm cho thấy: lãnh đạo chính trị mà dừng lại ở đường lối chung, không cụ thể hoá đường lối sát đúng từng thời kỳ với những điều kiện lịch sử cụ thể thì đường lối chung không thể trở thành hiện thực được. Trong thực tế, ban đầu thường chỉ có thể vạch ra những nét lớn, nét cơ bản nhất, sau đó phải từng bước cụ thể hoá đi tới hoàn chỉnh đường lối thành một hệ thống nhất quán từ đường lối chiến lược đến các chủ trương, chính sách lớn. Đảng ta đã có nhiều thành công trong việc cụ thể hoá đường lối. Thí dụ: sau khi xác định mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đánh đổ đế quốc và địa chủ phong kiến, giành "độc lập dân tộc" và "người cày có ruộng", Đảng đã xác định đúng mục tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng thời kỳ 1930-1931, 1932-1935, 1936-1939, 1939-1945... Đảng ta đã kết hợp một cách đúng đắn mục tiêu lâu dài của giai đoạn cách mạng với mục tiêu trước mắt của từng thời kỳ. Kinh nghiệm cho thấy: mục tiêu cụ thể phải thích hợp với từng thời kỳ, nhưng vẫn phải quán triệt tư tưởng của đường lối chiến lược. Những sai lầm, khuyết điểm trong thời kỳ 1975-1985 như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra, trong đó có sai lầm về chỉ đạo chiến lược không thật sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, nên đề ra một số chủ trương, chính sách lớn không phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ cụ thể của chặng đường đầu. Nhiệm vụ lãnh đạo chính trị của Đảng hiện nay đòi hỏi tiếp tục hoàn chỉnh và cụ thể hoá đường lối một cách đồng bộ và nhất quán. 4. Hướng vào thực tiễn mà kiểm nghiệm, hoàn chỉnh cụ thể hoá đường lối Để có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo các quy luật khách quan. Chủ quan, duy ý chí đã là nguồn gốc của nhiều sai lầm, dẫn tới nhiều tác hại trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra làm thế nào để nhận thức được đúng quy luật khách quan - nhất là tìm ra được nội dung và cơ chế tác động của quy luật trong điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta. ở đây, không thể chỉ cǎn cứ vào nguyên lý có sẵn của học thuyết Mác - Lênin, đề ra đường lối, chính sách, quá trình biến lý luận và đường lối thành hành động của hàng triệu quần chúng, và nhờ tổng kết thực tiễn, Đảng mới dần dần nhận thức và vận dụng được quy luật một cách đúng đắn. Lịch sử chứng tỏ rằng Đảng ta, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối cách mạng dân tộc đúng đắn ngay từ đầu. Song, đó mới chỉ là những nét cơ bản. Thực tiễn đấu tranh cách mạng đã giúp Đảng ta hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, từng bước nhận thức đúng đắn những quy luật vận động cách mạng. Thái độ hoài nghi tính đúng đắn của đường lối, chính sách là một sai lầm. Song, không bám sát những diễn biến của thực tiễn trong quá trình thực hiện để kiểm nghiệm, phát triển, cụ thể hoá đường lối, chính sách sẽ không nâng cao được hiệu quả lãnh đạo. Thực tiễn còn cho thấy, nếu Đảng mắc sai lầm trong việc định chủ trương, chính sách, lại quan liêu, xa rời thực tiễn, thì sai lầm có thể kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng. Coi trọng khảo sát thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, trân trọng sáng kiến của các địa phương và cơ sở, đó là những kinh nghiệm quý, rất cần thiết cho việc hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, chính sách ngày càng đúng đắn. B. KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, một nhiệm vụ trọng yếu là thường xuyên tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng đồng thời lãnh đạo công tác tư tưởng trong mọi tổ chức và toàn xã hội. Công tác tư tưởng có nhiệm vụ góp phần làm phong phú và quán triệt học thuyết Mác-Lênin, tạo cơ sở cho việc đề ra đường lối chính trị đúng đắn, truyền bá thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng cùng đường lối của Đảng trong các cấp bộ đảng và toàn dân; nâng cao nhận thức và cổ vũ nhân dân hành động theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra; đấu tranh chống những quan điểm tư tưởng sai trái, phản động. Những nét chính của quá trình Đảng ta lãnh đạo công tác tư tưởng như sau: - Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng tập trung tuyên truyền sâu rộng nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên, dựa vào đó mà giáo dục ý thức cách mạng, động viên quần chúng đấu tranh. Gắn với việc truyền bá Cương lĩnh, Đảng phê phán chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia dân tộc hẹp hòi, chống khuynh hướng khủng bố cá nhân, không thấy vai trò quyết định của quần chúng. - Trong cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng hướng công tác tư tưởng vào việc quán triệt chủ trương lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ, dân sinh, uốn nắn các khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, không thấy cần phải tranh thủ, lôi kéo các tầng lớp trung gian và tầng lớp trên; có khuynh hướng lại quá đề cao các tầng lớp này, coi nhẹ vai trò công nông. Khuynh hướng sai lầm khác là coi thường hoặc quá say sưa với hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp. - Trong cao trào cách mạng 1939-1945, trên cơ sở chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược sát đúng là tập trung thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, công tác tư tưởng của Đảng đã khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng mặt trận dân tộc cứu nước rộng rãi, đẩy mạnh xây dựng lực lượng và đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Đảng cũng phê phán tư tưởng hữu khuynh, rụt rè không dám đẩy mạnh đấu tranh phù hợp với điều kiện và thời cơ lịch sử, đồng thời chống khuynh hướng nóng vội, muốn khởi nghĩa sớm khi điều kiện chưa thật chín muồi. - Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng tiếp tục bồi dưỡng tinh thần yêu nước, động viên toàn dân cống hiến sức lực, của cải, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Phê phán, sửa chữa sai lầm trong thực hiện chủ trương chỉnh đốn Đảng và cải cách ruộng đất về mặt công tác tư tưởng là giản đơn, giáo điều, gò ép ... gây nên những khó khǎn, tổn thất cho Đảng và cách mạng. - Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng coi trọng công tác nghiên cứu và giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tuyên truyền, phổ biến đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, làm cho nhân dân hiểu biết và tin theo chủ nghĩa xã hội. Song trên lĩnh vực lý luận đã phạm một số sai lầm, nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mắc bệnh giáo điều, rập khuôn, làm cho việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách không được sát đúng với thực tiễn nước ta. Bệnh chủ quan, một chiều cũng chi phối công tác giáo dục tư tưởng. Dân chủ hoá trong sinh hoạt tư tưởng và hoạt động xã hội chưa được coi trọng, chưa uốn nắn kịp thời và phê phán sắc bén những khuynh hướng cực đoan về các mặt trên. Từ quá trình lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng, có thể nêu lên những kinh nghiệm sau: - Cần nắm vững công tác lý luận, làm cho lý luận luôn bám sát thực tiễn, thực sự có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã có nhiều thành tựu về nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam. Sự lạc hậu về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bệnh giáo điều, sùng bái kinh nghiệm nước ngoài; mặt khác, lại chủ quan, duy ý chí, không coi trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang đòi hỏi đảng phải đổi mới tư duy lý luận , nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội. Để làm việc đó, cần khắc phục nếp nghĩ giáo điều, chủ quan, duy ý chí, đề cao tinh thần sáng tạo, đi sâu tổng kết quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, tham khảo kinh nghiệm của các nước, từ đó rút ra những kết luận, từ
File đính kèm:
- Sự lãnh đạo của Đảng.doc