SKKN Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh Lớp 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu SKKN Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh Lớp 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 5 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ GIÚP HỌC SINH TỪNG BƯỚC TIẾP CẬN VỚI PHƯƠNG PHÁP HỌC CỦA HỌC SINH LỚP 6”. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Năm học 2024 – 2025, HS khối lớp 5 thực hiện chương trình 2018. Công văn 2345 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề cập tới việc GV các khối lớp 3; 4; 5 chú ý cập nhật soạn và dạy theo định hướng phát triển năng lực. Song thực tế thì hầu hết giáo viên chưa nắm rõ dạy như thế nào là phát triển năng lực học sinh, phát triển được năng lực gì? Cách soạn giảng bài dạy theo định hướng phát triển năng lực là như thế nào? Đặc biệt HS lớp 5 chuyển từ bậc tiểu học lên bậc trung học cơ sở sẽ có nhiều điểm bỡ ngỡ khi phải làm quen với cách học mới: Sự thay đổi về vị trí, sự ngỡ ngàng khi tiếp cận các môn học, sự bất ngờ về ghi chép. Vì vậy nếu ở tiểu học học sinh có một phương pháp học tốt thì không những chất lượng học tập sẽ được nâng cao mà còn giúp các em không bị bỡ ngỡ, giúp các em bắt nhịp tốt hơn khi học lên cấp Trung học cơ sở. Với lí do trên, Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề Đồi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6 nhằm trao đổi, chia sẻ về những vấn đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6. II- THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH VÀ HỌC CỦA LỚP 5 VÀ LỚP 6 HIỆN NAY: 1.Đối với lớp 5: * Giáo viên: Giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về chất lượng giáo dục, đã chú ý dạy theo đối tượng học sinh, chuẩn kiến thức kĩ năng, đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng. Năm học 2024 – 2025, Khối 5 đã thảo luận và xây dựng chuyên đề dạy Toán theo định hướng phát triển năng lực, hơn thế nữa tháng 9 năm 2024, toàn bộ GV khối lớp 5 đã được tập huấn xây dựng khung chương trình học kì II nên ít nhiều GV tổ 4 + 5 không ngỡ ngàng với sự tiếp cận phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Song bên cạnh đó còn một số giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp nên đôi lúc vẫn còn làm thay học sinh, sợ học sinh không hiểu nên giáo viên còn nói nhiều lần, chưa chú ý khắc sâu kiến thức và chưa hướng cho học sinh tự ghi những kiến thức trọng tâm của bài. Thường giáo viên giảng, học sinh nghe sau đó cuối buổi học giáo viên mới dành ít thời gian nhất định cho học sinh ghi bài. Đây chính hạn chế trong phương pháp dạy học của giáo viên, chưa tạo cho học sinh phương pháp tự học, tự nghe và tự ghi chép. Và cũng đồng nghĩa với việc chưa coi trọng dạy học phát triển năng lực của học sinh. Ở lớp 5 mỗi lớp được giao cho một giáo viên chủ nhiệm và dạy hầu hết số tiết Toán, Tiếng Việt (kể cả Toán +, Tiếng việt +) để đảm bảo chất lượng còn lại các môn chuyên thì có giáo viên chuyên. Như vậy với 1 cô giáo dạy 1 lớp trong cả một năm thì giáo viên sẽ nắm chắc đặc điểm, sự tiếp thu của học sinh, tính cách, hoàn cảnh gia đình của học sinh và có điều kiện chăm lo một cách tỉ mỉ cho học sinh. Ngoài việc dạy kiến thức giáo viên còn phải chú ý tới rèn tính tỉ mỉ, cẩn thận trong đó có việc ghi chép nắn nót từng chữ để vở sạch, chữ đẹp. *Học sinh: Trên thực tế, hiện nay học sinh Tiểu học đã mạnh dạn tự tin hơn, các em đã có kĩ năng sống tốt hơn vì việc dạy thực hành kĩ năng sống được tích hợp qua các phân môn. Điều này giúp các em biết sống hòa nhập trong xã hội, biết tự trọng, tôn trọng mọi người, biết ứng xử, giao tiếp, giúp các em luôn mạnh dạn, tự tin, biết bày tỏ ý kiến, biết hợp tác trong học tập. Bên cạnh đó, môn Tin học được đưa vào giảng dạy trong nhà trường với thời lượng 2 tiết/tuần giúp các em được tiếp cận với công nghệ thông tin, biết ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập: như khai thác thông tin, tìm kiếm tài liệu trên mạng internet, gửi thư điện tử. Ở các nhà trường hầu hết có phòng máy được trang bị đầy đủ các giàn máy vi tính, trường chúng tôi đã có 15 bộ máy tính, 2 máy chiếu kết nối mạng ở tất cả các lớp, điều này rất thuận lợi cho các giáo viên (đặc biệt là giáo viên và học sinh lớp 5) khai thác và vận dụng triệt để trong giảng dạy và học tập. Song những hoạt động đó diễn ra chưa thường xuyên, các em chưa linh hoạt trong việc nắm bắt kiến thức. Việc tìm, lựa chọn nguồn thông tin của học sinh còn hạn chế, hầu như các em chưa biết chắt lọc kiến thức, chưa xác định được ý chính, phần trọng tâm để có ý thức tự ghi nhớ và ghi lại các kiến thức trọng tâm trong từng bài học. Điều đó cho thấy khả năng phát triển năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của các em còn hạn chế. 2. Đối với lớp 6: Khi lên lớp 6 học sinh được học nhiều thầy cô giáo với nhiều môn học khác nhau (Mỗi thầy cô phụ trách một môn), mỗi thầy cô lại có phong cách cũng như phương pháp dạy học riêng và thời lượng quy định là 45 phút/1tiết học nên việc thực hiện chương trình của từng môn/tiết là không thay đổi vì hết 45 phút học sinh phải chuyển sang môn khác với thầy cô giáo khác. Như vậy nếu như trong 45 phút ấy có học sinh chưa hiểu bài, chưa ghi được bài giáo viên cũng không thể kéo dài thời gian để giảng giải tỉ mỉ cho học sinh được. Các thầy cô ít có điều kiện quan tâm giúp đỡ từng học sinh như ở Tiểu học. Đồng thời đa số giáo viên còn nặng về dạy kiến thức, ít chú ý rèn kỹ năng cho học sinh. Ở lớp 6 phần lớn chưa được học 2 buổi/ngày; các em phải vừa nghe giảng vừa hoạt động học tập vừa tự ghi bài nên các em gặp nhiều khó khăn trong học tập. Các em mới làm quen cách học ở cấp THCS nên tốc độ học còn chậm, học sinh phải làm quen với các bài học trừu tượng. Trong môn Ngữ Văn ở ngay các bài đầu tiên đã có các từ Hán Việt, học sinh phải tự soạn bài trước ở nhà; số bài kiểm tra, thời gian kiểm tra khác nhau, nhiều hơn cách kiểm tra miệng bằng cách học thuộc, bài tập phải viết thành văn bản nên cách viết chưa thuần thục, cách trình bày diễn đạt còn kém Đây là một sự khác biệt giữa việc dạy học ở lớp 5 và dạy học ở lớp 6 do đó các em sẽ bỡ ngỡ với cách học này nếu như ở Tiểu học không được làm quen với phương pháp tự học. Từ những thực trạng trên chúng tôi đã tiến hành yêu cầu giáo viên lớp 5 đổi mới phương pháp, đổi mới cách dạy môn Tiếng Việt chú ý phát triển năng lực học sinh và chú ý tiếp cận với cách dạy của cấp trung học cơ sở nhằm giúp học sinh từng bước làm quen với cách học, cách ghi bài của lớp 6 và đặc biệt phát triển năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng cho cả 2 cấp học. III. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN 1. Giáo viên cần hiểu và xác định rõ được một số năng lực cơ bản học sinh tiểu học cần đạt để tiếp cận tốt cách học của lớp 6: Trong quá trình dạy học, năng lực được hiểu là sự kết hợp, là khả năng vận dụng đồng bộ kiến thức, kĩ năng, thái độ và phẩm chất đã tích lũy được để ứng xử, xử lí tình huống hay để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả. Như vậy, bản chất của năng lực là khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí để thực hiện thành công một công việc trong bối cảnh nhất định. Mục tiêu bài học được cụ thể hóa thông qua các năng lực được hình thành. Chúng ta đang trong giai đoạn chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ thông mới. Chương trình này sẽ hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung là: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ và giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông và một số năng lực chuyên môn liên quan đến các môn học: Ví dụ năng lực sử dụng ngôn ngữ Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học nhằm phát triển tối đa năng lực của người học. Trong đó người học tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của người dạy. Như vậy, mỗi giáo viên nói chung và giáo viên lớp 5 nói riêng cần xác định được vai trò, tầm quan trọng của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Để học sinh lớp 5 tiếp cận tốt với nội dung chương trình và cách học ở lớp 6 thì trong các năng lực cốt lõi vừa nêu giáo viên cần đặc biệt chú ý đến năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. * Năng lực tự học: Để hình thành năng lực tự học cho học sinh, cần xây dựng hệ thống nội dung học tập logic, chặt chẽ và hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh nội dung đó bằng các việc làm cụ thể sao cho đạt được kết quả chắc chắn, qua đó nhằm khuyến khích học sinh tự tìm hiểu, tự khám phá ra kiến thức mới gần giống như kiến thức mà các em đã được học. Với những nội dung vừa phân tích ta có thể thấy “Năng lực tự học là cốt lõi trong thời đại mới”. * Năng lực hợp tác: Thông qua hợp tác trong học tập người học rèn luyện được nhiều kĩ năng như tổ chức nhóm, kĩ năng lắng nghe, phản hồi tích cực, kĩ năng đánh giá, tự đánh giá, ... Học sinh lớp 5 phát triển năng lực hợp tác sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn, biết phối kết hợp với các bạn trong các hoạt động nhóm để nâng cao hiệu quả của các hoạt động học tập. Điều này giúp các em tiếp cận được dễ dàng hơn với môi trường học tập của lớp 6, của bậc trung học cơ sở. * Năng lực giải quyết vấn đề: Ở bậc tiểu học, nhất là học sinh lớp 5, rất cần thiết để phát triển năng lực giải quyết vấn đề bởi nó giúp học sinh nắm vững kiến thức, liên hệ giữa các kiến thức; có khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào cuộc sống, công việc; có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, xã hội; ý thức nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc. Việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực là điều rất cần thiết đối với học sinh tiểu học, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn và tích cực tham gia vào hoạt động của nhà trường, được bày tỏ ý kiến, tăng cường vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn; đồng thời cũng góp phần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong các nhà trường. 2. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh: Trong việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học của học sinh là mối quan tâm hàng đầu. Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình, tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Một số phương pháp giáo viên có thể sử dụng: phương pháp giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trò chơi. Dạy và học theo hướng tích cực là dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh và chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Năm học 2024 - 2025 này đặc biệt chú trọng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh với các đặc trưng cơ bản: dạy học thông qua các hoạt động của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tiếp cận với cách dạy và học của lớp 6 cần thể hiện ở việc dạy học chú ý khắc sâu kiến thức cho học sinh hướng tới dạy học sinh cách tự học, tự nhớ kiến thức và tự ghi bài. * Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc lớp 5: Thầy thuốc như mẹ hiền + Ở phần luyện đọc, GV áp dụng phương pháp dạy học tích cực là phương pháp thảo luận nhóm: Sau khi chia đoạn, các nhóm trưởng điều hành cho các bạn trong nhóm đọc nối tiếp đoạn (phân công bạn đọc, nghe bạn đọc, cùng nhau góp ý, nhận xét, sửa cho bạn). Khi giáo viên mời 1 nhóm đọc (nhóm trưởng phân công học sinh trong nhóm đọc nối tiếp từng đoạn trước lớp) học sinh kết hợp đánh giá, tự đánh giá cách đọc của bạn. Như vậy, với phương pháp luyện đọc như thế học sinh đã biết cách chủ động tự luyện đọc, tự sửa sai, tự đánh giá và đánh giá được cách đọc của bạn đồng thời phát huy được vai trò của trưởng nhóm điều hành việc tự luyện đọc và phát triển năng lực sử dụng Tiếng Việt của học sinh. + Ở phần tìm hiểu bài (phân môn Tập đọc) : giáo viên có thể biến câu hỏi thành một tình huống sau đó giáo viên yêu cầu học sinh xử lý, giải quyết tình huống đó, từ đó học sinh sẽ phát huy được năng lực giải quyết vấn đề, liên hệ đến đời sống thực tế. 2.1. Đối với phân môn Luyện từ và câu: a. Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hoá vốn từ. Đây là dạng bài nhằm cung cấp, mở rộng, hệ thống hoá vốn từ ngữ cho học sinh trong từng chủ điểm. Khi dạy dạng bài này giáo viên hướng dẫn Học sinh làm các bài tập và giúp các em tìm ra một số từ ngữ của chủ điểm sau đó giáo viên hệ thống hoá, mở rộng vốn từ cho các em. Đồng thời giáo viên cần khắc sâu để học sinh hiểu nghĩa và ghi lại một số từ ngữ tiêu biểu của mỗi chủ điểm từ đó các em biết cách sử dụng từ ngữ một cách hợp lý trong khi viết văn cũng như trong giao tiếp. Giáo viên cần tổ chức tiết dạy dựa trên vốn từ, vốn hiểu biết của Học sinh để phát huy hết khả năng tự học của học sinh. Ví dụ: tiết Mở rộng vốn từ: Tổ quốc (tuần 2) - Gv cần cho HS ghi là các từ đồng nghĩa với từ “Tổ quốc” sau khi làm xong bài 1 và 2. Và các từ chứa tiếng “quốc” (nghĩa lafnwowcs) sau khi làm xong bài tập 3. b.Đối với bài dạy kiến thức mới. - Đây là dạng bài cung cấp cho học sinh những kiến thức về từ và câu thường gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ và luyện tập. - Khi dạy dạng bài này giáo viên nên cho học sinh tự phát huy khả năng, tự xây dựng ngữ liệu(nếu thấy ngữ liệu trong Sách giáo khoa chưa phù hợp vì Sách giáo viên là viết cho mọi vùng miền nên có thể có những ngữ liệu chưa phù hợp thì Giáo viên có thể thay đổi ngữ liệu hoặc định hướng cho Học sinh xây dựng ngữ liệu) hoặc chủ động làm việc với sách giáo khoa bằng cách các em tự đọc hiểu ngữ liệu sau đó giáo viên dùng hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh phân tích và tự rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức -> Giáo viên chốt lại và học sinh tự ghi ý chính đó vào vở. VD: Khi dạy bài Từ trái nghĩa qua phần nhận xét -> học sinh rút ra ghi nhớ: Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Sau đó tự ghi vào vở, và ghi một số ví dụ cụ thể. Như vậy nếu như ở Tiểu học các em có phương pháp học luyện từ và câu tốt thì các em có vốn từ phong phú và giúp các em học phân môn Ngữ văn ở lớp 6 một cách tốt hơn. Đó chính là sự thể hiện mối liên hệ kiến thức cả 2 cấp học. - Để học sinh tự ghi được nội dung chính của bài giáo viên phải xác định được nội dung trọng tâm học sinh cần ghi nhớ thể hiện bằng những câu chốt bài thật ngắn gọn, thật xúc tích và toát lên nội dung bài. Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời rồi tự học, tự phát hiện ra kiến thức, tự rút ra kết luận. Kết luận của học sinh có thể đúng có thể chưa thật đúng vì vậy giáo viên sẽ sửa cho học sinh và trong quá trình học sinh vừa nghe, vừa đánh giá, vừa ghi lại chứ không phải giáo viên dành mất một khoảng thời gian cho học sinh ghi. Ở bước này giáo viên phải làm chậm, nói chậm, học sinh nhắc lại nhiều lần và yêu cầu: các em tự ghi nhớ bài. Trong quá trình giảng giáo viên cần lưu lại trên bảng những nội dung chính của bài học (hoặc trên bảng phụ). Nếu tiết dạy được trình chiếu trên máy cần thiết kế các slide để lưu lại các nội dung chính từ đầu đến kết thúc tiết học: Tô đậm những nội dung quan trọmg như quy tắc, định nghĩa, khái niệm, tính chất, tổng quát...để học sinh có thể tự ghi chép vào vở của mình. Tuy nhiên giai đoạn đầu học sinh lớp 5 sẽ khó ghi lại những ý chính hoặc ghi không đầy đủ nhưng giáo viên cũng không nên yêu cầu quá cao đối với học sinh ở những tuần đầu. 2.2.Đối với phân môn Tập đọc : - Đối với lớp 5 giáo viên cần đặc biệt chú ý rèn cho học sinh kĩ năng đọc diễn cảm, hiểu văn bản ở mức độ cao hơn lớp dưới. Định hướng cho Học sinh tự nắm được dàn ý của bài, biết tóm tắt đoạn, bài hiểu ý nghĩa của bài, biết phát hiện và bước đầu biết nhận định về giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài đọc có giá trị văn chương(hiểu giá trị nghệ thuật). Song để tiếp cận với cách học phân môn Ngữ Văn của lớp 6 thì khi dạy Tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự ghi ý chính của bài vào vở. Định hướng cho học sinh chuẩn bị bài, đọc lại bài và ghi những từ gợi tả, những câu văn hay, câu văn sử dụng biện pháp nhân hoá, so sánh ... mà em thích vào sổ tay để làm phong phú vốn từ ngữ cho các em. Đặc biệt chú ý rèn cho học sinh kỹ năng đọc lướt, tóm tắt ý chính bởi đây là một việc làm hết sức quan trọng đối với học sinh khi các em học phân môn Văn ở lớp 6. *VD: Khi học bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa. - Học sinh ghi được ý chính vào vở. - Ghi và nhớ một số từ ngữ tiêu biểu được dùng để tả cảnh ngày mùa ở làng quê từ đó các em sẽ vận dụng khi viết văn. Các em phải hiểu tả cảnh về làng mạc ngày mùa thì bao trùm lên toàn cảnh đó là “màu vàng” một màu vàng trú phú và đầm ấm, màu vàng gợi lên sự giàu có, đầm ấm với những ý nghĩa khác nhau. Song mỗi cảnh vật, lại được miêu tả với “màu vàng” khác nhau. VD: Khi tả: lúa dùng từ vàng xuộm nắng vàng hoe. lá mít, lá chuối vàng ối. rơm, thóc vàng giòn. gà, chó vàng mượt. - Khi kết thúc bài, GV cần dặn dò HS cách chuẩn bị bài sau: + Đọc bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” – trả lợi lại câu hỏi trong phần tìm hiểu bài, ghi 1 câu văn miêu tả mà em thích nhất trong bài . + Đọc trước bài Nghìn năm văn hiến; ghi lại từ mình chưa thật hiểu nghĩa; Dự kiến các câu trả lời ở phần câu hỏi Tìm hiểu bài. 2..3. Phần Tập làm văn: Dạng văn miêu tả kiểu bài tả cảnh. Với mỗi dạng bài giáo viên lớp 5 cần chú ý chốt kiến thức và định hướng đổi mới phương pháp dạy học như sau: VD1 - Đối với dạng bài cho học sinh tìm hiểu các đoạn văn hoặc bài văn tả cảnh để học sinh nắm được cấu tạo của một đoạn văn, bài văn tả cảnh. Sau đó học tập được cách viết một đoạn văn, một bài văn tả cảnh. Ở dạng văn này giáo viên cần khắc sâu cho học sinh: + Xác định được đúng đối tượng miêu tả trong bài văn, đoạn văn để tránh lạc đề khi viết văn. + Xác định nội dung của bài văn, đoạn văn đó. + Trình tự miêu tả là gì? Theo trình tự thời gian hay không gian, hay tả từng bộ phận của cảnh? + Cách viết câu mở đoạn, kết đoạn hoặc mở bài, kết bài. + Cách liên kết câu trong đoạn, cách liên kết đoạn trong bài... + Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật hay sự liên tưởng thú vị...mà nhà văn đã sử dụng trong bài. + Từ đó rút ra được cấu trúc của một đoạn văn hay một bài văn tả cảnh. Sau đó học sinh tự ghi vào vở cấu tạo của bài văn tả cảnh. VD2 - Đối với dạng quan sát lập dàn ý: Dạng này thường là học sinh chuẩn bị trước ở nhà nhưng giáo viên cũng đặc biệt quan tâm, chú ý đến việc dặn dò học sinh. Giáo viên nên hướng dẫn cho các em cách quan sát, cần quan sát những gì, lưu ý các em cần xác định đúng yêu cầu trọng tâm của đề bài để quan sát đúng đối tượng miêu tả. Khi quan sát cần chú ý sử dụng tất cả các giác quan để cảm nhận, cần lựa chọn những đặc điểm nổi bật của cảnh, sử dụng nhữnh từ ngữ gợi cảm, gợi tả, sử dụng những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, nhân hoá hay liên tưởng làm cho cảnh vật sinh động hơn, gần giũ gắn bó với con người hơn. Sau đó ghi vào vở chuẩn bị bài những điều đã quan sát được để có ý chính chuẩn bị cho bước lập dàn ý tại lớp. *Đối với lớp 6: Khi dạy về văn miêu tả thì phương pháp chung để học sinh làm tốt 1 bài văn miêu tả: 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, lựa chọn các chi tiết đặc sắc đồng thời biết sắp xếp các chi tiết đó theo một trình tự thích hợp, phải biết dùng từ, đặt câu, dựng đoạn. VD: Ở nội dung này học sinh có bài tập: đọc ngữ liệu và tìm hiểu nội dung chính. Chỉ ra những đặc điểm nổi bật, con người và quang cảnh đã dược miêu tả trong đoạn văn đoạn thơ. Sau đó yêu cầu học sinh nêu những đặc điểm nổi bật khi viết một đoạn văn miêu tả cảnh vật. (VD: Nếu phải viết một đoạn văn miêu tả cảnh mùa đông đến thì em sẽ nêu lên những đặc điểm nổi bật nào? Bước lựa chọn ý, chi tiết đặc sắc là hết sức quan trọng nó cũng giống dạy 1 dạng của Tiểu học đã trình bày: học sinh tìm hiểu văn bản tìm ý chính....) 2. Sau khi quan sát xong giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét, liên tưởng, so sánh, ví von...để làm nổi bật lên những đặc điểm tiêu biểu của sự vật. Đặc biệt việc sử dụng các từ láy, từ chỉ màu sắc, đường nét, âm thanh (từ tượng thanh, tượng hình), từ biểu cảm. Khi tả cảnh phải biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ, liên tưởng. Các thao tác khi làm một bài văn tả cảnh ở lớp 6 cũng như lớp 5 gồm các bước: - Tìm hiểu đề (Tả cảnh gì? ở đâu? vào lúc nào?). - Quan sát và tìm ý - Dựng đoạn, diễn đạt. - Lập dàn ý. - Đọc lại bài văn đã viết. Tóm lại việc dạy văn Miêu tả ở lớp 5 và lớp 6 đều có các bước giống nhau song yêu cầu của lớp 6 cao hơn .Học sinh viết bài văn với nhiều ý, nhiều đoạn, nhiều câu hơn, khả năng diễn đạt sáng hơn, cách sử dụng từ ngữ cũng yêu cầu cao hơn, sự thể hiện tình cảm rõ nét hơn. Học sinh lớp 6 phải chuẩn bị bài ở nhà thật kĩ, văn bản các em tìm hiểu dài hơn; các em phải tư duy trìu tượng hơn. Tuy các bước dạy có phần giống nhau song tốc độ ghi nhớ kiến thức ở lớp 6 nhanh hơn. Yêu cầu học sinh tự ghi lại ý chính là hết sức cần thiết. Vì vậy điều cốt yếu là giáo viên lớp 5 phải dạy học sinh biết cách làm bài, biết được những hạn chế sau mỗi bài làm để khắc phục ở những bài sau. Điều này rất quan trọng ở tiết trả bài học sinh phải biết ghi lại những câu sai, các từ ngữ dùng chưa đúng rồi biết cách sửa lại. Trong cách dạy trên giáo viên vừa phải đảm bảo mục tiêu của tiết dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học, vừa chú ý dạy phân loại đối tượng học sinh song đã hướng tới tiếp cận với cách dạy ở lớp 6 là học sinh chủ động trong việc tiếp thu kiến thức và chủ động trong việc ghi bài . Như vậy, để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện tốt những điều cơ bản sau: 2.1.1. Giáo viên phải có nhận thức đúng đắn về việc đổi mới phương pháp dạy học, các kĩ thuật dạy học tích cực. 2.1.2. Chú trọng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. 2.1.3. GV phải nắm chắc được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 5 và hiểu được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 6 để từ đó có phương pháp dạy phù hợp. 2.1.4. Sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực sẽ tạo sự chủ động cho học sinh, phát triển cho học sinh các năng lực hợp tác, năng lực tự học, ... tạo điều kiện để các em tiếp cận với cách học, nội dung chương trình của lớp 6 một cách tự tin. 3. Đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực cho học sinh. 3.1 Đổi mới hình thức dạy học. - Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học là việc đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động dạy học.Trong tiết dạy giáo viên cần tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh dưới nhiều hình thức phong phú kết hợp linh hoạt các hình thức dạy học mà phát huy được tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần chú ý cách dạy ít- học nhiều tức là chuyển hoạt động nói của giáo viên thành hoạt động học của học sinh. Đồng thời, chú ý áp dụng những thành tố tích cực của mô hình trường tiểu học mới như: hình thức học tập theo nhóm, phát huy khả năng hợp tác, tổ chức trò chơi, câu lạc bộ... Tăng cường hình thức tổ chức trải nghiệm, dạy học ngoài không gian lớp học để học sinh được thảo luận, tranh luận, trải nghiệm... bộc lộ khả năng cá nhân của mỗi học sinh. Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi là điểm nhấn của việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Mỗi giáo viên cần có ý thức dạy học gắn với sự trải nghiệm sáng tạo cả trong và ngoài nhà trường. Điều này thể hiện việc đổi mới các hình thức dạy học đa dạng phong phú cho học sinh. Nhất là với học sinh lớp năm, ở cuối giai đoạn tiểu học, giáo viên cần tăng cường các hình thức trải nghiệm sáng tạo, tổ chức tiết dạy ngoài không gian lớp học giúp học sinh có năng lực giải quyết vấn đề, khai thác vốn kinh nghiệm sống của học sinh, xử lý tình huống trong thực tiễn thông qua các hoạt động học sinh được trải nghiệm thực tế. * Ví dụ: + Khi dạy ở trong lớp, bài Thuyết trình, tranh luận (lớp 5) – đây là kiểu bài có thể áp dụng trải nghiệm sáng tạo rèn cho học sinh được rất nhiều kĩ năng. Hay kiểu bài tả người, khi tả bạn thân, chúng ta có thể dành thời gian cho các em quan sát bạn của mình, đó chắc chắn sẽ là sự trải nghiệm thực tế rất tuyệt vời với các em. + Khi tổ chức dạy ngoài không gian lớp học: Bài: Luyện tập tả cảnh lớp 5: giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát ngôi trường theo nhóm: nhóm thì quan sát khu vực phòng học; nhóm quan sát khu vực trò chơi vận động; cổng trường; ... Các em thảo luận, ghi chép lại những điều đã quan sát được và báo cáo trước lớp. Với việc lồng ghép các HĐTNST và tổ chức các hoạt động ngoài không gian lớp học giúp học sinh được học tập gắn với thực tế. Các em được quan sát, được trao đổi, thảo luận, giúp các em tư duy ngôn ngữ chính là năng lực ngôn ngữ và giao tiếp, trau dồi vốn từ truyền tải được vào nội dung vào các bài văn miêu tả một cách đầy cảm xúc, mang đến sự chủ động, niềm vui cho học sinh trong mỗi tiết học. Việc tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm, dạy học ngoài không gian lớp học đã góp phần phát triển các năng lực: tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề cho học sinh tăng kinh nghiệm sống cho các em. Tạo nền móng, tiền đề chắc chắn cho các em có đầy đủ tâm thế, sự tự tin khi bước vào lớp 6. - Các hình thức dạy học cá nhân, hoạt động nhóm, tổ chức trò chơi, câu lạc bộ, hội thi được giáo viên vận dụng một cách linh hoạt. 3.2 Sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực. Các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được giáo viên tìm hiểu và áp dụng như: kĩ thuật đặt câu hỏi; kỹ thuật Khăn trải bàn, kỹ thuật Các mảnh ghép, kĩ thuật dạy học theo sơ đồ KWL và sơ đồ tư duy, kĩ thuật Trình bày một phút, kĩ thuật Chúng em biết 3; kĩ thuật Đọc tích cực; ...Với mỗi kĩ thuật dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng một cách hợp lý sẽ phát huy được sự phát triển năng lực cho học sinh. * Ví dụ 1: Dạy tập đọc lớp 5: Bài 25: Phong cảnh đền Hùng * GV sử dụng kĩ thuật dạy học theo sơ đồ KWL khi dặn học sinh chuẩn bị cho bài học: Giáo viên thiết kế, chuẩn bị sẵn phiếu, phát cho hoc sinh và hướng dẫn các em chuẩn bị bài: - Bước 1: GV nêu vấn đề: Đền Hùng có vẻ đẹp như thế nào? Ý nghĩa của đền Hùng là gì? - Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh: + Nhiệm vụ 1: Em biết gì về đền Hùng? (Ghi những điều đã biết điền vào cột K) + Nhiệm vụ 2: Em muốn biết thêm gì về đền Hùng? (Ghi điều em muốn biết vào cột W) - Cột L sẽ để ghi sau khi chúng ta học xong bài. Họ và tên: .............................................. Lớp: ............................................ Chủ đề: Phong cảnh đền Hùng W L K Những điều muốn biết Những điều đã học được sau Những điều đã biết bài học Căn cứ vào đó, về nhà, học sinh sẽ tự tiến hành tìm hiểu nội dung bài học bằng nhiều hình thức khác nhau và ghi vào phiếu. Đến lớp, Gv cho học sinh báo cáo kết quả và tổng kết. W L K Những điều muốn biết Những điều đã học được sau Những điều đã biết bài học - Đền Hùng thuộc tỉnh Phú- Đền Hùng có vẻ đẹp như - Đền Hùng có vẻ đẹp hùng Thọ. thế nào? vĩ, tráng lệ. - Ý nghĩa: bày tỏ niềm thành - Đền Hùng là nơi thờ các - Ý nghĩa của đền Hùng là kính thiếng liêng của mỗi vua Hùng. gì? con người đối với tổ tiên. * Tương tự, Bài tập đọc: Luật tục xưa của người Ê- đê, giáo viên cũng sử dụng kĩ thuật dạy học theo sơ đồ KWL trong phần tìm hiểu dân tộc Ê – đê: - Giáo viên cũng nêu gợi ý: + Em đã biết gì về dân tôc Ê- đê? (Họ sống ở vùng nào? Kể tên một phong tục của người Ê- đê, ...) + Em muốn biết thêm điều gì về dân tộc Ê- đê? - Với cách sử dụng kĩ thuật này giúp học sinh phát triển năng lực tự học rất tốt. * Sử dụng kĩ thuật Đọc tích cực: - GV nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng HS đọc bài/phần đọc. + Đọc thông tin trong sách giáo khoa và cho biết người Ê- đê xưa quy định về cách xử phạt như thế nào? ... - HS làm việc cá nhân: + Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, HS cần đọc lướt qua bài đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ quan trọng. + Đọc và đoán nội dung : HS đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các em phải tìm ra. Ví dụ: + Người xưa đặt ra luật tục để làm gì? + Theo em cách xử phạt của người Ê-đê thể hiện điều gì? ... + Tìm ý chính: HS tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập trung vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình. VD: Em có chú ý gì khi đọc + Tóm tắt ý chính. - Trao đổi theo nhóm, đề xuất câu hỏi, thắc mắc với giáo viên. * Sử dụng kĩ thuật Trình bày một phút: + Sau khi học xong em hãy ghi lại những nội dung em biết về dân tộc Ê – đê sau đó trình bày lại nội dung chính đó trong vòng 1 phút hoặc có thể liên hệ thực tế. + Các em đã thực hiện các quy định của người học sinh như thế nào? Em hãy chia sẻ cho các bạn cùng biết. (Học sinh ghi câu trả lời ra giấy sau đó trình bày trước lớp trong khoảng 1 phút). - Học sinh thảo luận và đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Sau mỗi báo cáo, Gv cùng lớp nhận xét, đánh giá, bổ sung, chốt kiến thức bằng hình ảnh, clip, thuyết minh sinh động, rõ ràng. Như vậy học sinh đã phát huy được năng lực tự học, năng lực hợp tác, kĩ năng trình bày, ... chủ động lĩnh hội kiến thức của bài. Điều này đồng thời đã thể hiện dạy học chú ý đến phát triển năng lực của học sinh. * Tăng cường hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy – rèn cho học sinh kĩ năng, thói quen thường xuyên lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức và phát triển năng lực. Giáo viên cần tăng cường lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức cho học sinh từ đó rèn cho học sinh kĩ năng, thói quen tự lập sơ đồ tư duy trong các bài học phù hợp. Giáo viên thường xuyên yêu cầu học sinh vẽ lại sơ đồ tư duy vào vở, dựa vào sơ đồ tư duy để trình bày, cho chủ đề, nội dung để học sinh tự lập sơ đồ tư duy. Điều này tạo tiền đề thuận lợi rất lớn cho cac em khi học lên lớp 6. * Ví dụ: Ở bài tập đọc lớp 5: Thầy thuốc như mẹ hiền Sau khi cho học sinh luyện đọc, từ phần tìm hiểu bài giáo viên xây dựng thành lược đồ tư duy thể hiện nội dung bài. Từ khóa được chọn là Hải Thượng Lãn Ông. Thông qua hoạt động nhóm, dưới sự điều hành của các nhóm trưởng, học sinh tìm hiểu Lãn Ông là người như thế nào? Từ đó hình thành 2 nhánh của lược đồ tư duy: giàu lòng nhân ái, không màng danh lợi. Sau khi các em tìm được những việc làm, biểu hiện: Lãn Ông nghe tin con nhà thuyền chài bị bệnh đậu nặng nhưng nhà nghèo, không có tiền chữa, tự tìm đến thăm. Ông tận tụy chữa bệnh cho cháu bé suốt một tháng trời không ngại khổ, ngại bẩn. Chữa khỏi bệnh cho cháu bé, ông chẳng những không lấy tiền mà còn cho thêm gạo, củi... giáo viên hình thành các nhánh con thể hiện sự giàu lòng nhân ái. Cứ như vậy, trong quá trình tìm hiểu, phân tích nội dung, giáo viên tiếp tục hình thành tiếp các nhánh còn lại của lược đồ tư duy, hệ thống nội dung toàn bài rất cụ thể, có chiều sâu và dễ nhớ. + Ở phần Tìm hiểu bài, giáo viên áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực Lược đồ tư duy để giúp các em hệ thống được kiến thức, tự ghi nhớ kiến thức của bài học một cách ngắn gọn nhưng chính xác, đầy đủ và khoa học nhất. 4. Tăng cường thực hiện đổi mới cách học cho học sinh nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh. Việc đổi mới cách học ở đây thể hiện ở những nội dung sau: 4.1. Học sinh phải biết cách tự học, tự chuẩn bị bài: a) Tự học: Các em tự lực khám phá những điều chưa biết trên cơ sở những điều đã biết. Tham gia vào các hoạt động học tập, các em được đặt vào những tình huống, được trực tiếp quan sát, thảo luận, trao đổi, làm thí nghiệm, được khuyến khích đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề theo cách của mình. Được động viên trình bày quan điểm riêng của mỗi cá nhân. Qua đó người học không những chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ năng mới mà còn làm chủ cách thức xây dựng kiến thức, từ đó tính tự chủ và sáng tạo có cơ hội được bộc lộ, rèn luyện. - Học sinh biết cách tự đọc sách giáo khoa, tiếp xúc với các lệnh, các yêu cầu của sách giáo khoa, tự huy động những kiến thức đã học, tự tìm hiểu kiến thức trên mạng Internet để tự tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức. - Tự học phải được các em thực hiện thường xuyên : +Tự học trên lớp đó là việc các em tự nghiên cứu ví dụ, ngữ liệu trong sách giáo khoa, tự trả lời câu hỏi để tìm hiểu bài và tự ghi lại các câu trả lời. Thể hiện việc tự học, tự chuẩn bị bài vào đầu giờ và cuối giờ dạy. Giáo viên kiểm tra bằng nhiều hình thức khác nhau: Giáo viên trực tiếp kiểm tra; các nhóm trưởng kiểm tra; trưởng ban học tập kiểm tra và báo cáo; ... Cuối giờ học, Giáo viên dặn dò học sinh chuẩn bị cho bài sau bằng những yêu cầu cụ thể, rõ ràng (học sinh có thể ghi vào vở giao việc). +Tự học ở nhà: đó là việc các em tự học lại bài cũ và nghiên cứu chuẩn bị bài mới. Đối với lớp 5: Các em chưa có ý thức tự học, trên lớp các em thường làm theo yêu cầu của cô giáo, việc tìm hiểu bài thường dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo viên, các em ít có khả năng tự mình nghiên cứu và phát hiện ra kiến thức. Song đối với lớp 6 việc chủ động và tự mình phát hiện ra kiến thức là một yêu cầu và việc làm thường xuyên đối với lớp 6. Chính vì vậy việc xây dựng cho học sinh phương pháp tự học cần được giáo viên kết hợp với gia đình rèn cho học sinh từ những lớp dưới, tạo cho các em có ý thức học học tập tốt, có động cơ học tập đúng đắn và đặc biệt là các em có hứng thú đối với việc học tập. Cùng với việc định hướng trong việc tự học cho học sinh thì giáo viên cũng hướng dẫn cho học sinh sử dụng sổ tay toán học để ghi các quy tắc, kết luận, công thức tính S các hình....hoặc sổ tay văn học để ghi những từ ngữ hay mà giáo viên cung cấp thuộc các chủ đề, hoặc tự tìm đọc những bài văn hay- ghi lại những chi tiết, hình ảnh mình yêu thích. Từ những chi tiết hình ảnh đó, tập sáng tạo những câu văn theo ý thích của mình, ghi vào sổ tay, tập sử dụng những biện pháp nghệ thuật như nhân hoá, so sánh, liên tưởng...từ đó làm phong phú vốn từ và vốn văn học cho học sinh . b) Tự chuẩn bị bài: Đối với học sinh Tiểu học các em được thầy cô hướng dẫn và giúp đỡ hoàn thiện bài tập ngay trên lớp, không cho bài tập về nhà đối với học sinh. Vì vậy việc chuẩn bị bài ở nhà của các em rất hời hợt, các em không có thói quen tự tìm hiểu bài trước, việc học thuộc các ghi nhớ cũng không thường xuyên. Đối với lớp 6, việc chuẩn bị bài được coi là một yêu cầu bắt buộc, các em có một loại vở soạn văn (đối với môn Ngữ Văn) để các em tự đọc bài, tự trả lời câu hỏi và ghi vào vở. Bên cạnh đó việc kiểm tra miệng được diễn ra thường xuyên, mỗi lần kiểm tra miệng các em được đánh giá bằng điểm số và được ghi vào sổ điểm chính vì vậy việc chuẩn bị bài của các em là hết sức cần thiết. Để giúp các em làm quen với cách học của lớp 6 thì giáo viên lớp 5 cần định hướng cho học sinh tự chuẩn bị bài. Đó là xem lại bài cũ và chuẩn bị bài hôm sau (đọc bài, ghi ý chính...). Rèn cho các em khả năng đọc hiểu câu hỏi, tự nghiên cứu kiến thức ở sách giáo khoa để hoàn thiện các lệnh, các yêu cầu cơ bản của sách giáo khoa. Đó là khả năng tự làm việc với sách hoặc tự trải nghiệm thực tế (quan sát đối tượng) tham gia hoạt động tại gia đình, tự tìm hiểu kiến thức trên mạng.... Đây là một việc làm hết sức cần thiết góp phần nâng cao chất lượng và rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh tiếp cận với yêu cầu soạn văn ở lớp 6 THCS. Ví dụ: + Tập làm văn: Hôm sau có bài: Lập dàn ý về văn tả cảnh, thì hôm trước học sinh phải quan sát đối tượng miêu tả; ghi lại những ý quan sát được vào vở chuẩn bị bài (tương tự vở soạn văn của lớp 6) nhưng yêu cầu đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn để học sinh chuẩn bị bài một cách vừa sức. + Tập đọc: Hôm sau học bài Phong cảnh đền Hùng thì hôm trước học sinh cần sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu về đền Hùng; ghi lại những hiểu biết của em về đền Hùng vào vở. 4.2. Học sinh biết cách tự ghi bài. Đối với học sinh tiểu học việc tự ghi bài là việc rất hạn chế, các em thường ghi bài theo sự hướng dẫn, theo yêu cầu , theo bài mẫu của giáo viên, các em chưa chủ động trong việc chắt lọc ý chính để ghi bài. Đối với lớp 6 các em phải tập trung nghe giảng, vừa ghi nhớ kiến thức vừa tự ghi lại ý chính của bài. Với cách học này cường độ học của các em sẽ cao hơn, yêu cầu các em sẽ phải tích cực hơn trong học tập. Vì vậy đổi mới cách học ở đây là việc định hướng cho học sinh tự ghi bài, tức là trong mỗi bài học, sau mỗi nội dung kiến thức, giáo viên chốt lại kiến thức và học sinh phải hiểu đó là những kiến thức cần ghi lại và các em sẽ ghi nhớ và tự ghi bài để vận dụng cho việc làm bài tập ở các tiết sau. Các tiết buổi chiều ở lớp 5, giáo viên có thể cho học sinh ghi bằng bút bi, viết vào vở kẻ ngang để làm quen với cách ghi bài ở lớp 6. Khi các em viết vào vở ô li, các em phải viết nắn nót bằng bút máy, cẩn thận từng chữ cho đúng kích cỡ, mẫu chữ của tiểu học. Điều này đồng nghĩa với việc các em viết chậm, luôn phải tập trung vào từng ô li để viết cho đều, cho ngay ngắn. Nhưng lên lớp 6 các em phải chuyển sang viết vào vở kẻ ngang, nếu không có sự chuẩn bị làm quen, sự tiếp cận dần dần sẽ làm cho các em không theo kịp tốc độ, chữ sẽ nguệch ngoạc, rối tay, sai lỗi, chưa nói đến không ghi chép đủ nội dung dẫn đến hẫng hụt kiến thức và dần cảm thấy không có hứng thú học tập, ngại ghi chép bài, ... Chính vì vậy, giáo viên lớp 5 cần cho các em làm quen với cách ghi vở kẻ ngang vào các tiết Toán (tăng) hay Tiếng Việt (tăng) bằng bút bi. Các em sẽ rèn được tác phong nhanh nhẹn khi viết bài, khi chuyển giao giữa các tiết, phát triển được năng lực tự học của học sinh. 5. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho học sinh. 5.1. Với giáo viên: Công nghệ thông tin có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương thức dạy – học nhất là khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của công nghệ thông tin. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp học. Với thực tế nhà trường có 20/20 lớp có ti vi, máy vi tính, máy chiếu kết nối mạng internet là điều kiện thuận lợi để các giáo viên tăng cường ứng dụng thông tin trong giảng dạy. Giáo viên tăng cường khai thác, hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức thông qua máy tính trên lớp. Ngoài các bài học, các clip, hình ảnh sinh động trong các tiết dạy, giáo viên có thể cho học sinh tận dụng tìm kiếm tư liệu, tài liệu chuẩn bị cho bài học sau trong giờ ra chơi. Qua đó, các em cùng nhau tìm kiếm thông tin trên mạng, trao đổi, chọn lọc thông tin cần thiết ghi lại vào vở của mình phục vụ cho bài học. Điều này giúp học sinh phát triển được kĩ năng hợp tác, năng lực sử dụng Công nghệ thông tin, cùng nhau chuẩn bị bài. Ngoài ra, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng điện thoại thông minh, máy tính ở nhà để tìm kiếm thông tin chuẩn bị cho bài học. Tuy nhiên, cần có sự trao đổi ngay từ đầu năm học với phụ huynh học sinh để họ nắm rõ và định hướng cho học sinh sử dụng điện thoại, máy tính ở nhà một cách có hiệu quả. * Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc (lớp 5): Luật tục xưa của người Ê- đê: Sau khi giới thiệu bài, GV cho HS nêu những điều em biết về dân tộc Ê- đê, GV giới thiệu thêm về dân tộc Ê- đê thông qua clip ... Việc GV ứng dụng CNTT như thế đã giúp học sinh được trải nghiệm qua màn ảnh nhỏ, tạo sự hứng thú rất lớn cho các em hoặc giáo viên có thể cho học sinh nêu nhiều điều em đã biết qua tìm hiểu trên mạng Internet về người Ê – đê... 5.2. Với học sinh: Học sinh lớp 5 đã có các kĩ năng khai thác và xử lí thông tin trên mạng internet, giáo viên có thể cho các em ứng dụng công nghệ thông tin để tự học, tự chuẩn bị bài, tìm kiếm thông tin, sưu tầm tranh ảnh các clips chuẩn bị phục vụ cho bài học. Ví dụ: Chụp ảnh, gửi qua hòm thư điện tử khi học tập làm văn tả cảnh, .. (phân môn Tập làm văn), .... dưới sự giám sát của phụ huynh – giáo viên. Việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp các em được làm quen với hình ảnh trực quan sinh động. Học sinh được nhìn thấy nhiều hình ảnh và âm thanh thực tế ngoài đời. Học sinh hứng thú, tiếp thu bài nhanh, các em rất thích những tiết học có ứng dụng CNTT. Các em cũng được thực hành các thao tác công nghệ thông tin được học ở môn tin học vào việc chuẩn bị bài hay phát hiện kiến thức, ... giúp học sinh phát triển kĩ năng tự tìm ra kiến thức, nâng cao năng lực, hiểu biết của bản thân. 6. Định hướng cách soạn bài theo định hướng phát triển năng lực HS. * Soạn bài: - Khâu chuẩn bị (không phải giáo viên phải viết ra bài soạn, giáo viên phải dự kiến, xác định được trước khi soạn bài). - Với mỗi bài học ngày từ khâu soạn bài giáo viên cần xác định khi học bài này học sinh cần được phát triển năng lực như thế nào? Cụ thể: + Tự chủ, tự học như thế nào? + Giao tiếp và hợp tác với nhau như thế nào? + Giải quyết vấn đề như thế nào? Và phát triển được năng lực đặc trưng môn học như thế nào? Song điều quan trọng giáo viên phải định hướng con đường, cách thức học sinh sẽ thực hiện để phát triển được năng lực. Ví dụ: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề - giáo viên xác định mục tiêu: học sinh được giải quyết vấn đề về cuộc sống, luật tục ở người Ê –đê. Nội dung vấn đề nêu ra được thể hiện ở phần giới thiệu bài. - Với mỗi năng lực trên giáo viên cần xác định hệ thống kiến thức cho phù hợp, dự kiến phương pháp, kĩ thuật dạy học, hình thức tổ chức để học sinh được hoạt động tích cực từ đó phát triển năng lực khác nhau. * Với mỗi hoạt động dạy học thì giáo viên cần thể hiện rõ nội dung – phương pháp sử dụng, hình thức tổ chức và kĩ thuật dạy học. Ví dụ: tiết tập đọc: Một vụ đắm tàu Mục tiêu.... * Giảng dạy: Với sự chuẩn bị 1 giáo án chu đáo, giáo viên sẽ tự tin, chủ động khi lên lớp. Tuy nhiên không phải tiết nào chúng ta cũng yêu cầu giáo viên làm như vậy, không phải tiết nào cũng phát huy hết các năng lực của học sinh mà tùy thuộc vào đối tượng học sinh, vào năng lực của giáo viên, vào đặc trưng của môn học. Mỗi môn học, mỗi tiết dạy chúng ta sẽ có những phương pháp, cách thức tổ chức, kĩ thuật dạy học phù hợp để phát triển một số năng lực cho học sinh. Trên thực tế giáo viên chúng ta cũng đã làm: Ví dụ: sử dụng phương pháp hoạt động nhóm, hay phương pháp nêu tình huống... Song nhiều khi chúng ta làm chưa hiệu quả, học sinh chưa thực sự hoạt động nên chúng ta chưa đạt tới mục tiêu dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh. Ví dụ: mục tiêu – tiết Tập làm văn: Tả cảnh: + Học sinh được trải nghiệm, được quan sát, phân tích, tổng hợp để tìm ra những hình ảnh, từ ngữ miêu tả ngôi trường ( phát triển năng lực tự học, quan hệ hợp tác gắn liên với thực tế cuộc sống). Không cần ghi là phát triển năng lực tự học...(không phải ghi cụ thể tên các năng lực vào mục tiêu). - Để xác định mục tiêu của tiết học phát huy năng lực cho học sinh, giáo viên cần hiểu: lồng ghép những năng lực cần đạt được vào yêu cầu kiến thức, kĩ năng, thái độ cần đạt của bài. - Việc phát triển năng lực thông qua các hoạt động tìm hiểu kiến thức của bài chính là cách tổ chức các hoạt động cho học sinh được trải nghiệm, giải quyết vấn đề, hoạt động nhóm nhằm tìm hiểu ra nội dung của bài – thể hiện qua một số từ ở phần mục tiêu. VD: Học sinh được giải quyết vấn đề. + Học sinh được trải nghiệm... – tổ chức hoạt động trải nghiệm – phát triển năng lực vận dụng vào cuộc sống thực tiễn. + Học sinh được tự luyện đọc, hoạt động nhóm – phát triển năng lực hợp tác... + Học sinh được thực hành... ( Khoa học, Toán). + Học sinh được tích lũy, tổng hợp, vận dụng kinh nghiệm sống... Với những cụm từ như vậy tức là chúng ta đã tìm ra cách tổ chức cách hoạt động để phát triển năng lực cho học sinh. VD: Học sinh được giải quyết vấn đề - tức là chúng ta đã sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề - tìm ra kiến thức của bài đồng thời phát triển năng lực giải quyết vấn đề. - Môn khoa học, Đạo đức, Tự nhiên xã hội dễ hơn. Ví dụ: học sinh được thí nghiệm, được tổng hợp kiến thức kinh nghiệm cuộc sống... - Học sinh được giải quyết tình huống liên quan đến bài (Khoa học, TNXH..) Tiết Tập đọc : Một vụ đắm tàu . 1. Những hoạt động giáo dục để phát triển năng lực học sinh: - Luyện đọc đúng. + Đọc nối tiếp trong nhóm đôi. + Đại diện nhóm đọc trước lớp . - Tìm hiểu bài : + Học sinh thảo luận nhóm 4 ,trao đổi kiến thức trình bày trước lớp . + Dùng sơ đồ tư duy ghi những hành động, việc làm, nét tính cách của hai nhân vật. - Luyện đọc diễn cảm : + Tự lựa chọn đoạn mình thích để đọc. + Nêu cách đọc diễn cảm. - Thực hành viết đoạn văn, thơ, kể chuyện về hai nhân vật. 2. Những hoạt động giáo dục để học sinh lớp 5 tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6: - Chuẩn bị bài , soạn bài trước ở nhà . - Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm. - Tự ghi vở . IV . KHUNG KẾ HOẠCH BÀI DẠY (THEO CV 2345/BGD – ĐT) I. Yêu cầu cần đạt: Khi xác định yêu cầu cần đạt cần xác định rõ: HS thực hiện được việc gì, vận dụng được những gì vào giải quyết vấn đề trong thực tế cuộc sống, có cơ hội hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực gì. II. Đồ dùng dạy học: Nêu các thiết bị, học liệu được sử dụng trong bài dạy để tổ chức cho HS hoạt động nhằm đạt yêu cầu cần đạt của bài dạy. III. Các hoạt động dạy học: GV cần linh hoạt sáng tạo, đa dạng theo tính chất của bài học. Các hoạt động gồm: 1. Hoạt động mở đầu (khởi động, kết nối) 2. Hoạt động hình thành kiến thức mới: trải nghiệm, khám phá, phân tích, hình thành kiến thức mới (đối với bài hình thành kiến thức mới) 3. Hoạt động luyện tập, thực hành 4. Hoạt động vận dụng trải nghiệm (nếu có) IV. Điều chỉnh sau bài dạy (nếu có)
File đính kèm:
skkn_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_mon_tieng_viet_o_lop_5_theo.docx