SKKN Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh Lớp 6

docx20 trang | Chia sẻ: Hoài Chi | Ngày: 30/07/2025 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu SKKN Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh Lớp 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 CHUYÊN ĐỀ
 “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 5
 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
 VÀ GIÚP HỌC SINH TỪNG BƯỚC TIẾP CẬN VỚI PHƯƠNG PHÁP HỌC
 CỦA HỌC SINH LỚP 6”.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
 Năm học 2024 – 2025, HS khối lớp 5 thực hiện chương trình 2018. Công văn 2345 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề cập tới việc GV các khối lớp 3; 4; 5 chú ý cập nhật 
soạn và dạy theo định hướng phát triển năng lực. Song thực tế thì hầu hết giáo viên 
chưa nắm rõ dạy như thế nào là phát triển năng lực học sinh, phát triển được năng lực 
gì? Cách soạn giảng bài dạy theo định hướng phát triển năng lực là như thế nào? Đặc 
biệt HS lớp 5 chuyển từ bậc tiểu học lên bậc trung học cơ sở sẽ có nhiều điểm bỡ ngỡ 
khi phải làm quen với cách học mới: Sự thay đổi về vị trí, sự ngỡ ngàng khi tiếp cận 
các môn học, sự bất ngờ về ghi chép. Vì vậy nếu ở tiểu học học sinh có một phương 
pháp học tốt thì không những chất lượng học tập sẽ được nâng cao mà còn giúp các em 
không bị bỡ ngỡ, giúp các em bắt nhịp tốt hơn khi học lên cấp Trung học cơ sở.
 Với lí do trên, Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề Đồi mới phương pháp dạy 
học môn Tiếng Việt ở lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh 
từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6 nhằm trao đổi, chia sẻ về 
những vấn đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực và giúp học sinh từng bước 
tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6.
II- THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN 
NĂNG LỰC HỌC SINH VÀ HỌC CỦA LỚP 5 VÀ LỚP 6 HIỆN NAY:
1.Đối với lớp 5:
* Giáo viên:
 Giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về chất lượng giáo dục, đã chú ý dạy theo đối 
tượng học sinh, chuẩn kiến thức kĩ năng, đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao 
chất lượng. Năm học 2024 – 2025, Khối 5 đã thảo luận và xây dựng chuyên đề dạy 
Toán theo định hướng phát triển năng lực, hơn thế nữa tháng 9 năm 2024, toàn bộ GV 
khối lớp 5 đã được tập huấn xây dựng khung chương trình học kì II nên ít nhiều GV tổ 
4 + 5 không ngỡ ngàng với sự tiếp cận phương pháp dạy học theo định hướng phát triển 
năng lực. Song bên cạnh đó còn một số giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới 
phương pháp nên đôi lúc vẫn còn làm thay học sinh, sợ học sinh không hiểu nên giáo viên còn nói nhiều lần, chưa chú ý khắc sâu kiến thức và chưa hướng cho học sinh tự 
ghi những kiến thức trọng tâm của bài. Thường giáo viên giảng, học sinh nghe sau đó 
cuối buổi học giáo viên mới dành ít thời gian nhất định cho học sinh ghi bài. Đây chính 
hạn chế trong phương pháp dạy học của giáo viên, chưa tạo cho học sinh phương pháp 
tự học, tự nghe và tự ghi chép. Và cũng đồng nghĩa với việc chưa coi trọng dạy học 
phát triển năng lực của học sinh.
 Ở lớp 5 mỗi lớp được giao cho một giáo viên chủ nhiệm và dạy hầu hết số tiết Toán, 
Tiếng Việt (kể cả Toán +, Tiếng việt +) để đảm bảo chất lượng còn lại các môn chuyên 
thì có giáo viên chuyên. Như vậy với 1 cô giáo dạy 1 lớp trong cả một năm thì giáo viên 
sẽ nắm chắc đặc điểm, sự tiếp thu của học sinh, tính cách, hoàn cảnh gia đình của học 
sinh và có điều kiện chăm lo một cách tỉ mỉ cho học sinh. Ngoài việc dạy kiến thức giáo 
viên còn phải chú ý tới rèn tính tỉ mỉ, cẩn thận trong đó có việc ghi chép nắn nót từng 
chữ để vở sạch, chữ đẹp.
 *Học sinh: 
 Trên thực tế, hiện nay học sinh Tiểu học đã mạnh dạn tự tin hơn, các em đã có kĩ 
năng sống tốt hơn vì việc dạy thực hành kĩ năng sống được tích hợp qua các phân môn. 
Điều này giúp các em biết sống hòa nhập trong xã hội, biết tự trọng, tôn trọng mọi 
người, biết ứng xử, giao tiếp, giúp các em luôn mạnh dạn, tự tin, biết bày tỏ ý kiến, biết 
hợp tác trong học tập.
 Bên cạnh đó, môn Tin học được đưa vào giảng dạy trong nhà trường với thời lượng 
2 tiết/tuần giúp các em được tiếp cận với công nghệ thông tin, biết ứng dụng công nghệ 
thông tin trong học tập: như khai thác thông tin, tìm kiếm tài liệu trên mạng internet, 
gửi thư điện tử. Ở các nhà trường hầu hết có phòng máy được trang bị đầy đủ các giàn 
máy vi tính, trường chúng tôi đã có 15 bộ máy tính, 2 máy chiếu kết nối mạng ở tất cả 
các lớp, điều này rất thuận lợi cho các giáo viên (đặc biệt là giáo viên và học sinh lớp 
5) khai thác và vận dụng triệt để trong giảng dạy và học tập. Song những hoạt động đó 
diễn ra chưa thường xuyên, các em chưa linh hoạt trong việc nắm bắt kiến thức. Việc 
tìm, lựa chọn nguồn thông tin của học sinh còn hạn chế, hầu như các em chưa biết chắt 
lọc kiến thức, chưa xác định được ý chính, phần trọng tâm để có ý thức tự ghi nhớ và 
ghi lại các kiến thức trọng tâm trong từng bài học. Điều đó cho thấy khả năng phát 
triển năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của các em còn hạn chế.
2. Đối với lớp 6:
 Khi lên lớp 6 học sinh được học nhiều thầy cô giáo với nhiều môn học khác nhau 
(Mỗi thầy cô phụ trách một môn), mỗi thầy cô lại có phong cách cũng như phương pháp 
dạy học riêng và thời lượng quy định là 45 phút/1tiết học nên việc thực hiện chương 
trình của từng môn/tiết là không thay đổi vì hết 45 phút học sinh phải chuyển sang môn 
khác với thầy cô giáo khác. Như vậy nếu như trong 45 phút ấy có học sinh chưa hiểu 
bài, chưa ghi được bài giáo viên cũng không thể kéo dài thời gian để giảng giải tỉ mỉ cho học sinh được. Các thầy cô ít có điều kiện quan tâm giúp đỡ từng học sinh như ở 
Tiểu học. Đồng thời đa số giáo viên còn nặng về dạy kiến thức, ít chú ý rèn kỹ năng 
cho học sinh.
 Ở lớp 6 phần lớn chưa được học 2 buổi/ngày; các em phải vừa nghe giảng vừa hoạt 
động học tập vừa tự ghi bài nên các em gặp nhiều khó khăn trong học tập. Các em mới 
làm quen cách học ở cấp THCS nên tốc độ học còn chậm, học sinh phải làm quen với 
các bài học trừu tượng. Trong môn Ngữ Văn ở ngay các bài đầu tiên đã có các từ Hán 
Việt, học sinh phải tự soạn bài trước ở nhà; số bài kiểm tra, thời gian kiểm tra khác 
nhau, nhiều hơn cách kiểm tra miệng bằng cách học thuộc, bài tập phải viết thành 
văn bản nên cách viết chưa thuần thục, cách trình bày diễn đạt còn kém Đây là một 
sự khác biệt giữa việc dạy học ở lớp 5 và dạy học ở lớp 6 do đó các em sẽ bỡ ngỡ với 
cách học này nếu như ở Tiểu học không được làm quen với phương pháp tự học.
Từ những thực trạng trên chúng tôi đã tiến hành yêu cầu giáo viên lớp 5 đổi mới phương 
pháp, đổi mới cách dạy môn Tiếng Việt chú ý phát triển năng lực học sinh và chú ý tiếp 
cận với cách dạy của cấp trung học cơ sở nhằm giúp học sinh từng bước làm quen với 
cách học, cách ghi bài của lớp 6 và đặc biệt phát triển năng lực tự học, góp phần nâng 
cao chất lượng cho cả 2 cấp học.
III. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN
1. Giáo viên cần hiểu và xác định rõ được một số năng lực cơ bản học sinh tiểu học 
cần đạt để tiếp cận tốt cách học của lớp 6:
Trong quá trình dạy học, năng lực được hiểu là sự kết hợp, là khả năng vận dụng đồng 
bộ kiến thức, kĩ năng, thái độ và phẩm chất đã tích lũy được để ứng xử, xử lí tình huống 
hay để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả. Như vậy, bản chất của năng lực là khả 
năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như 
hứng thú, niềm tin, ý chí để thực hiện thành công một công việc trong bối cảnh nhất 
định. Mục tiêu bài học được cụ thể hóa thông qua các năng lực được hình thành. Chúng 
ta đang trong giai đoạn chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ thông mới. Chương 
trình này sẽ hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung là: năng lực tự 
học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ và giao tiếp, năng lực 
hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông và 
một số năng lực chuyên môn liên quan đến các môn học: Ví dụ năng lực sử dụng ngôn 
ngữ 
 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học nhằm phát triển 
tối đa năng lực của người học. Trong đó người học tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận 
thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của người dạy. Như vậy, mỗi giáo viên nói chung và 
giáo viên lớp 5 nói riêng cần xác định được vai trò, tầm quan trọng của việc dạy học 
theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Để học sinh lớp 5 tiếp cận tốt với nội 
dung chương trình và cách học ở lớp 6 thì trong các năng lực cốt lõi vừa nêu giáo viên cần đặc biệt chú ý đến năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề 
của học sinh.
* Năng lực tự học:
Để hình thành năng lực tự học cho học sinh, cần xây dựng hệ thống nội dung học 
tập logic, chặt chẽ và hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh nội dung đó bằng các việc 
làm cụ thể sao cho đạt được kết quả chắc chắn, qua đó nhằm khuyến khích học 
sinh tự tìm hiểu, tự khám phá ra kiến thức mới gần giống như kiến thức mà các 
em đã được học.
Với những nội dung vừa phân tích ta có thể thấy “Năng lực tự học là cốt lõi trong thời 
đại mới”. 
* Năng lực hợp tác:
 Thông qua hợp tác trong học tập người học rèn luyện được nhiều kĩ năng như tổ 
chức nhóm, kĩ năng lắng nghe, phản hồi tích cực, kĩ năng đánh giá, tự đánh giá, ...
Học sinh lớp 5 phát triển năng lực hợp tác sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn, biết 
phối kết hợp với các bạn trong các hoạt động nhóm để nâng cao hiệu quả của các hoạt 
động học tập. Điều này giúp các em tiếp cận được dễ dàng hơn với môi trường học tập 
của lớp 6, của bậc trung học cơ sở.
* Năng lực giải quyết vấn đề:
Ở bậc tiểu học, nhất là học sinh lớp 5, rất cần thiết để phát triển năng lực giải quyết vấn 
đề bởi nó giúp học sinh nắm vững kiến thức, liên hệ giữa các kiến thức; có khả năng 
vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào cuộc sống, công việc; có ý thức trách nhiệm đối 
với gia đình, xã hội; ý thức nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.
 Việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực là điều rất cần thiết đối với học 
sinh tiểu học, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn và tích cực tham gia vào hoạt động của 
nhà trường, được bày tỏ ý kiến, tăng cường vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn 
đề trong học tập và thực tiễn; đồng thời cũng góp phần đổi mới mạnh mẽ phương pháp 
dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong các nhà trường.
2. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho học 
sinh:
Trong việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học 
của học sinh là mối quan tâm hàng đầu. Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến 
các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng 
tạo của người học. Trong đó các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi 
giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá 
trình, tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua 
đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Một số phương pháp giáo viên có thể sử dụng: phương pháp giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trò chơi. Dạy và 
học theo hướng tích cực là dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh 
và chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Năm học 2024 - 2025 này đặc biệt chú trọng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát 
triển năng lực của học sinh với các đặc trưng cơ bản: dạy học thông qua các hoạt động 
của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể phối 
hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tiếp cận với cách dạy và học của lớp 6 
cần thể hiện ở việc dạy học chú ý khắc sâu kiến thức cho học sinh hướng tới dạy 
học sinh cách tự học, tự nhớ kiến thức và tự ghi bài.
* Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc lớp 5: Thầy thuốc như mẹ hiền
+ Ở phần luyện đọc, GV áp dụng phương pháp dạy học tích cực là phương pháp thảo 
luận nhóm: Sau khi chia đoạn, các nhóm trưởng điều hành cho các bạn trong nhóm đọc 
nối tiếp đoạn (phân công bạn đọc, nghe bạn đọc, cùng nhau góp ý, nhận xét, sửa cho 
bạn). Khi giáo viên mời 1 nhóm đọc (nhóm trưởng phân công học sinh trong nhóm đọc 
nối tiếp từng đoạn trước lớp) học sinh kết hợp đánh giá, tự đánh giá cách đọc của bạn.
Như vậy, với phương pháp luyện đọc như thế học sinh đã biết cách chủ động tự luyện 
đọc, tự sửa sai, tự đánh giá và đánh giá được cách đọc của bạn đồng thời phát huy 
được vai trò của trưởng nhóm điều hành việc tự luyện đọc và phát triển năng lực sử 
dụng Tiếng Việt của học sinh.
+ Ở phần tìm hiểu bài (phân môn Tập đọc) : giáo viên có thể biến câu hỏi thành một 
tình huống sau đó giáo viên yêu cầu học sinh xử lý, giải quyết tình huống đó, từ đó học 
sinh sẽ phát huy được năng lực giải quyết vấn đề, liên hệ đến đời sống thực tế.
2.1. Đối với phân môn Luyện từ và câu:
a. Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hoá vốn từ.
 Đây là dạng bài nhằm cung cấp, mở rộng, hệ thống hoá vốn từ ngữ cho học sinh trong 
từng chủ điểm. Khi dạy dạng bài này giáo viên hướng dẫn Học sinh làm các bài tập và 
giúp các em tìm ra một số từ ngữ của chủ điểm sau đó giáo viên hệ thống hoá, mở rộng 
vốn từ cho các em. Đồng thời giáo viên cần khắc sâu để học sinh hiểu nghĩa và ghi lại 
một số từ ngữ tiêu biểu của mỗi chủ điểm từ đó các em biết cách sử dụng từ ngữ một 
cách hợp lý trong khi viết văn cũng như trong giao tiếp. Giáo viên cần tổ chức tiết dạy 
dựa trên vốn từ, vốn hiểu biết của Học sinh để phát huy hết khả năng tự học của học 
sinh.
Ví dụ: tiết Mở rộng vốn từ: Tổ quốc (tuần 2)
- Gv cần cho HS ghi là các từ đồng nghĩa với từ “Tổ quốc” sau khi làm xong bài 1 và 
2. Và các từ chứa tiếng “quốc” (nghĩa lafnwowcs) sau khi làm xong bài tập 3. b.Đối với bài dạy kiến thức mới.
 - Đây là dạng bài cung cấp cho học sinh những kiến thức về từ và câu thường gồm 3 
phần: nhận xét, ghi nhớ và luyện tập.
- Khi dạy dạng bài này giáo viên nên cho học sinh tự phát huy khả năng, tự xây dựng 
ngữ liệu(nếu thấy ngữ liệu trong Sách giáo khoa chưa phù hợp vì Sách giáo viên là viết 
cho mọi vùng miền nên có thể có những ngữ liệu chưa phù hợp thì Giáo viên có thể 
thay đổi ngữ liệu hoặc định hướng cho Học sinh xây dựng ngữ liệu) hoặc chủ động làm 
việc với sách giáo khoa bằng cách các em tự đọc hiểu ngữ liệu sau đó giáo viên dùng 
hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh phân tích và tự rút ra những điểm cần ghi nhớ về 
kiến thức -> Giáo viên chốt lại và học sinh tự ghi ý chính đó vào vở.
VD: Khi dạy bài Từ trái nghĩa qua phần nhận xét -> học sinh rút ra ghi nhớ: Từ trái 
nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Sau đó tự ghi vào vở, và ghi một số ví dụ 
cụ thể.
 Như vậy nếu như ở Tiểu học các em có phương pháp học luyện từ và câu 
tốt thì các em có vốn từ phong phú và giúp các em học phân môn Ngữ văn ở lớp 6 
một cách tốt hơn. Đó chính là sự thể hiện mối liên hệ kiến thức cả 2 cấp học.
- Để học sinh tự ghi được nội dung chính của bài giáo viên phải xác định được nội dung 
trọng tâm học sinh cần ghi nhớ thể hiện bằng những câu chốt bài thật ngắn gọn, thật 
xúc tích và toát lên nội dung bài. Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi để học sinh trả 
lời rồi tự học, tự phát hiện ra kiến thức, tự rút ra kết luận. Kết luận của học sinh có thể 
đúng có thể chưa thật đúng vì vậy giáo viên sẽ sửa cho học sinh và trong quá trình học 
sinh vừa nghe, vừa đánh giá, vừa ghi lại chứ không phải giáo viên dành mất một khoảng 
thời gian cho học sinh ghi. Ở bước này giáo viên phải làm chậm, nói chậm, học sinh 
nhắc lại nhiều lần và yêu cầu: các em tự ghi nhớ bài. Trong quá trình giảng giáo viên 
cần lưu lại trên bảng những nội dung chính của bài học (hoặc trên bảng phụ). Nếu tiết 
dạy được trình chiếu trên máy cần thiết kế các slide để lưu lại các nội dung chính từ đầu 
đến kết thúc tiết học: Tô đậm những nội dung quan trọmg như quy tắc, định nghĩa, khái 
niệm, tính chất, tổng quát...để học sinh có thể tự ghi chép vào vở của mình. Tuy nhiên 
giai đoạn đầu học sinh lớp 5 sẽ khó ghi lại những ý chính hoặc ghi không đầy đủ nhưng 
giáo viên cũng không nên yêu cầu quá cao đối với học sinh ở những tuần đầu.
2.2.Đối với phân môn Tập đọc :
- Đối với lớp 5 giáo viên cần đặc biệt chú ý rèn cho học sinh kĩ năng đọc diễn cảm, hiểu 
văn bản ở mức độ cao hơn lớp dưới. Định hướng cho Học sinh tự nắm được dàn ý của 
bài, biết tóm tắt đoạn, bài hiểu ý nghĩa của bài, biết phát hiện và bước đầu biết nhận 
định về giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài đọc có giá trị văn chương(hiểu 
giá trị nghệ thuật). Song để tiếp cận với cách học phân môn Ngữ Văn của lớp 6 thì khi dạy Tập đọc giáo 
viên cần hướng dẫn học sinh tự ghi ý chính của bài vào vở. Định hướng cho học sinh 
chuẩn bị bài, đọc lại bài và ghi những từ gợi tả, những câu văn hay, câu văn sử dụng 
biện pháp nhân hoá, so sánh ... mà em thích vào sổ tay để làm phong phú vốn từ ngữ 
cho các em. Đặc biệt chú ý rèn cho học sinh kỹ năng đọc lướt, tóm tắt ý chính bởi đây 
là một việc làm hết sức quan trọng đối với học sinh khi các em học phân môn Văn ở 
lớp 6.
*VD: Khi học bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa.
- Học sinh ghi được ý chính vào vở.
- Ghi và nhớ một số từ ngữ tiêu biểu được dùng để tả cảnh ngày mùa ở làng quê từ đó 
các em sẽ vận dụng khi viết văn. Các em phải hiểu tả cảnh về làng mạc ngày mùa thì 
bao trùm lên toàn cảnh đó là “màu vàng” một màu vàng trú phú và đầm ấm, màu vàng 
gợi lên sự giàu có, đầm ấm với những ý nghĩa khác nhau. Song mỗi cảnh vật, lại được 
miêu tả với “màu vàng” khác nhau.
 VD: Khi tả: lúa dùng từ vàng xuộm
 nắng vàng hoe.
 lá mít, lá chuối vàng ối.
 rơm, thóc vàng giòn.
 gà, chó vàng mượt.
- Khi kết thúc bài, GV cần dặn dò HS cách chuẩn bị bài sau:
+ Đọc bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” – trả lợi lại câu hỏi trong phần tìm hiểu 
bài, ghi 1 câu văn miêu tả mà em thích nhất trong bài .
+ Đọc trước bài Nghìn năm văn hiến; ghi lại từ mình chưa thật hiểu nghĩa; Dự kiến các 
câu trả lời ở phần câu hỏi Tìm hiểu bài.
2..3. Phần Tập làm văn: Dạng văn miêu tả kiểu bài tả cảnh. Với mỗi dạng bài giáo 
viên lớp 5 cần chú ý chốt kiến thức và định hướng đổi mới phương pháp dạy học 
như sau:
VD1 - Đối với dạng bài cho học sinh tìm hiểu các đoạn văn hoặc bài văn tả cảnh để 
học sinh nắm được cấu tạo của một đoạn văn, bài văn tả cảnh. Sau đó học tập được 
cách viết một đoạn văn, một bài văn tả cảnh. Ở dạng văn này giáo viên cần khắc sâu 
cho học sinh: + Xác định được đúng đối tượng miêu tả trong bài văn, đoạn văn để tránh lạc đề khi 
viết văn.
+ Xác định nội dung của bài văn, đoạn văn đó.
+ Trình tự miêu tả là gì? Theo trình tự thời gian hay không gian, hay tả từng bộ phận 
của cảnh?
+ Cách viết câu mở đoạn, kết đoạn hoặc mở bài, kết bài.
+ Cách liên kết câu trong đoạn, cách liên kết đoạn trong bài...
+ Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật hay sự liên tưởng thú vị...mà 
nhà văn đã sử dụng trong bài.
+ Từ đó rút ra được cấu trúc của một đoạn văn hay một bài văn tả cảnh. Sau đó học 
sinh tự ghi vào vở cấu tạo của bài văn tả cảnh.
VD2 - Đối với dạng quan sát lập dàn ý: Dạng này thường là học sinh chuẩn bị trước ở 
nhà nhưng giáo viên cũng đặc biệt quan tâm, chú ý đến việc dặn dò học sinh. Giáo viên 
nên hướng dẫn cho các em cách quan sát, cần quan sát những gì, lưu ý các em cần xác 
định đúng yêu cầu trọng tâm của đề bài để quan sát đúng đối tượng miêu tả. Khi quan 
sát cần chú ý sử dụng tất cả các giác quan để cảm nhận, cần lựa chọn những đặc điểm 
nổi bật của cảnh, sử dụng nhữnh từ ngữ gợi cảm, gợi tả, sử dụng những biện pháp nghệ 
thuật như: so sánh, nhân hoá hay liên tưởng làm cho cảnh vật sinh động hơn, gần giũ 
gắn bó với con người hơn. Sau đó ghi vào vở chuẩn bị bài những điều đã quan sát 
được để có ý chính chuẩn bị cho bước lập dàn ý tại lớp.
*Đối với lớp 6:
Khi dạy về văn miêu tả thì phương pháp chung để học sinh làm tốt 1 bài văn miêu tả:
1. Giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, lựa chọn các chi tiết đặc sắc đồng 
thời biết sắp xếp các chi tiết đó theo một trình tự thích hợp, phải biết dùng từ, đặt câu, 
dựng đoạn.
VD: Ở nội dung này học sinh có bài tập: đọc ngữ liệu và tìm hiểu nội dung chính. Chỉ 
ra những đặc điểm nổi bật, con người và quang cảnh đã dược miêu tả trong đoạn văn 
đoạn thơ. Sau đó yêu cầu học sinh nêu những đặc điểm nổi bật khi viết một đoạn văn 
miêu tả cảnh vật.
 (VD: Nếu phải viết một đoạn văn miêu tả cảnh mùa đông đến thì em sẽ nêu lên 
những đặc điểm nổi bật nào? Bước lựa chọn ý, chi tiết đặc sắc là hết sức quan trọng 
nó cũng giống dạy 1 dạng của Tiểu học đã trình bày: học sinh
 tìm hiểu văn bản tìm ý chính....) 2. Sau khi quan sát xong giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét, liên tưởng, so sánh, ví 
von...để làm nổi bật lên những đặc điểm tiêu biểu của sự vật. Đặc biệt việc sử dụng các 
từ láy, từ chỉ màu sắc, đường nét, âm thanh (từ tượng thanh, tượng hình), từ biểu cảm. 
Khi tả cảnh phải biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ, liên tưởng.
Các thao tác khi làm một bài văn tả cảnh ở lớp 6 cũng như lớp 5 gồm các bước:
- Tìm hiểu đề (Tả cảnh gì? ở đâu? vào lúc nào?).
- Quan sát và tìm ý - Dựng đoạn, diễn đạt.
- Lập dàn ý. - Đọc lại bài văn đã viết.
Tóm lại việc dạy văn Miêu tả ở lớp 5 và lớp 6 đều có các bước giống nhau song yêu 
cầu của lớp 6 cao hơn .Học sinh viết bài văn với nhiều ý, nhiều đoạn, nhiều câu hơn, 
khả năng diễn đạt sáng hơn, cách sử dụng từ ngữ cũng yêu cầu cao hơn, sự thể hiện tình 
cảm rõ nét hơn. Học sinh lớp 6 phải chuẩn bị bài ở nhà thật kĩ, văn bản các em tìm hiểu 
dài hơn; các em phải tư duy trìu tượng hơn. Tuy các bước dạy có phần giống nhau song 
tốc độ ghi nhớ kiến thức ở lớp 6 nhanh hơn. Yêu cầu học sinh tự ghi lại ý chính là hết 
sức cần thiết. Vì vậy điều cốt yếu là giáo viên lớp 5 phải dạy học sinh biết cách làm bài, 
biết được những hạn chế sau mỗi bài làm để khắc phục ở những bài sau. Điều này rất 
quan trọng ở tiết trả bài học sinh phải biết ghi lại những câu sai, các từ ngữ dùng chưa 
đúng rồi biết cách sửa lại.
 Trong cách dạy trên giáo viên vừa phải đảm bảo mục tiêu của tiết dạy theo chuẩn kiến 
thức kĩ năng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học, vừa chú ý dạy phân 
loại đối tượng học sinh song đã hướng tới tiếp cận với cách dạy ở lớp 6 là học sinh 
chủ động trong việc tiếp thu kiến thức và chủ động trong việc ghi bài .
 Như vậy, để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng 
lực cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện tốt những điều cơ bản sau:
2.1.1. Giáo viên phải có nhận thức đúng đắn về việc đổi mới phương pháp dạy học, 
các kĩ thuật dạy học tích cực.
2.1.2. Chú trọng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng 
lực của học sinh.
2.1.3. GV phải nắm chắc được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 5 và hiểu được 
đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 6 để từ đó có phương pháp dạy phù hợp.
2.1.4. Sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực sẽ tạo sự chủ động cho 
học sinh, phát triển cho học sinh các năng lực hợp tác, năng lực tự học, ... tạo điều 
kiện để các em tiếp cận với cách học, nội dung chương trình của lớp 6 một cách tự 
tin. 3. Đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực 
nhằm phát huy năng lực cho học sinh.
3.1 Đổi mới hình thức dạy học.
- Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học là việc đổi mới hình thức tổ chức 
các hoạt động dạy học.Trong tiết dạy giáo viên cần tổ chức các hoạt động học tập cho 
học sinh dưới nhiều hình thức phong phú kết hợp linh hoạt các hình thức dạy học mà 
phát huy được tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần chú ý cách dạy ít- học nhiều 
tức là chuyển hoạt động nói của giáo viên thành hoạt động học của học sinh. Đồng 
thời, chú ý áp dụng những thành tố tích cực của mô hình trường tiểu học mới như: hình 
thức học tập theo nhóm, phát huy khả năng hợp tác, tổ chức trò chơi, câu lạc bộ... Tăng 
cường hình thức tổ chức trải nghiệm, dạy học ngoài không gian lớp học để học sinh 
được thảo luận, tranh luận, trải nghiệm... bộc lộ khả năng cá nhân của mỗi học sinh.
 Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Trải nghiệm sáng 
tạo là hoạt động được coi là điểm nhấn của việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Mỗi giáo 
viên cần có ý thức dạy học gắn với sự trải nghiệm sáng tạo cả trong và ngoài nhà 
trường. Điều này thể hiện việc đổi mới các hình thức dạy học đa dạng phong phú cho 
học sinh. Nhất là với học sinh lớp năm, ở cuối giai đoạn tiểu học, giáo viên cần tăng 
cường các hình thức trải nghiệm sáng tạo, tổ chức tiết dạy ngoài không gian lớp học 
giúp học sinh có năng lực giải quyết vấn đề, khai thác vốn kinh nghiệm sống của học 
sinh, xử lý tình huống trong thực tiễn thông qua các hoạt động học sinh được trải nghiệm 
thực tế.
* Ví dụ:
 + Khi dạy ở trong lớp, bài Thuyết trình, tranh luận (lớp 5) – đây là kiểu bài có thể 
áp dụng trải nghiệm sáng tạo rèn cho học sinh được rất nhiều kĩ năng. Hay kiểu bài tả 
người, khi tả bạn thân, chúng ta có thể dành thời gian cho các em quan sát bạn của 
mình, đó chắc chắn sẽ là sự trải nghiệm thực tế rất tuyệt vời với các em.
 + Khi tổ chức dạy ngoài không gian lớp học: Bài: Luyện tập tả cảnh lớp 5: giáo viên 
tổ chức cho học sinh quan sát ngôi trường theo nhóm: nhóm thì quan sát khu vực phòng 
học; nhóm quan sát khu vực trò chơi vận động; cổng trường; ... Các em thảo luận, ghi 
chép lại những điều đã quan sát được và báo cáo trước lớp.
 Với việc lồng ghép các HĐTNST và tổ chức các hoạt động ngoài không gian lớp 
học giúp học sinh được học tập gắn với thực tế. Các em được quan sát, được trao đổi, 
thảo luận, giúp các em tư duy ngôn ngữ chính là năng lực ngôn ngữ và giao tiếp, trau 
dồi vốn từ truyền tải được vào nội dung vào các bài văn miêu tả một cách đầy cảm xúc, 
mang đến sự chủ động, niềm vui cho học sinh trong mỗi tiết học.
 Việc tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm, dạy học ngoài không gian lớp 
học đã góp phần phát triển các năng lực: tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề cho học sinh tăng kinh nghiệm sống cho các em. Tạo nền móng, tiền đề chắc chắn cho các em 
có đầy đủ tâm thế, sự tự tin khi bước vào lớp 6.
- Các hình thức dạy học cá nhân, hoạt động nhóm, tổ chức trò chơi, câu lạc bộ, hội 
thi được giáo viên vận dụng một cách linh hoạt.
3.2 Sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực.
 Các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được giáo viên tìm hiểu và áp dụng 
như: kĩ thuật đặt câu hỏi; kỹ thuật Khăn trải bàn, kỹ thuật Các mảnh ghép, kĩ thuật 
dạy học theo sơ đồ KWL và sơ đồ tư duy, kĩ thuật Trình bày một phút, kĩ thuật 
Chúng em biết 3; kĩ thuật Đọc tích cực; ...Với mỗi kĩ thuật dạy học tích cực mà 
giáo viên sử dụng một cách hợp lý sẽ phát huy được sự phát triển năng lực cho học 
sinh.
* Ví dụ 1: Dạy tập đọc lớp 5: Bài 25: Phong cảnh đền Hùng
* GV sử dụng kĩ thuật dạy học theo sơ đồ KWL khi dặn học sinh chuẩn bị cho bài học: 
Giáo viên thiết kế, chuẩn bị sẵn phiếu, phát cho hoc sinh và hướng dẫn các em chuẩn 
bị bài:
- Bước 1: GV nêu vấn đề: Đền Hùng có vẻ đẹp như thế nào? Ý nghĩa của đền Hùng là 
gì?
- Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh:
+ Nhiệm vụ 1: Em biết gì về đền Hùng? (Ghi những điều đã biết điền vào cột K)
+ Nhiệm vụ 2: Em muốn biết thêm gì về đền Hùng? (Ghi điều em muốn biết vào cột 
W)
- Cột L sẽ để ghi sau khi chúng ta học xong bài.
Họ và tên: ..............................................
Lớp: ............................................
Chủ đề: Phong cảnh đền Hùng
 W L
 K
 Những điều muốn biết Những điều đã học được sau 
 Những điều đã biết
 bài học
 Căn cứ vào đó, về nhà, học sinh sẽ tự tiến hành tìm hiểu nội dung bài học bằng 
nhiều hình thức khác nhau và ghi vào phiếu.
 Đến lớp, Gv cho học sinh báo cáo kết quả và tổng kết. W L
 K
 Những điều muốn biết Những điều đã học được sau 
 Những điều đã biết
 bài học
 - Đền Hùng thuộc tỉnh Phú- Đền Hùng có vẻ đẹp như - Đền Hùng có vẻ đẹp hùng 
 Thọ. thế nào? vĩ, tráng lệ.
 - Ý nghĩa: bày tỏ niềm thành 
 - Đền Hùng là nơi thờ các - Ý nghĩa của đền Hùng là 
 kính thiếng liêng của mỗi 
 vua Hùng. gì?
 con người đối với tổ tiên.
* Tương tự, Bài tập đọc: Luật tục xưa của người Ê- đê, giáo viên cũng sử dụng kĩ thuật 
dạy học theo sơ đồ KWL trong phần tìm hiểu dân tộc Ê – đê:
- Giáo viên cũng nêu gợi ý: + Em đã biết gì về dân tôc Ê- đê? (Họ sống ở vùng nào? Kể 
tên một phong tục của người Ê- đê, ...)
+ Em muốn biết thêm điều gì về dân tộc Ê- đê?
- Với cách sử dụng kĩ thuật này giúp học sinh phát triển năng lực tự học rất tốt.
* Sử dụng kĩ thuật Đọc tích cực:
- GV nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng HS đọc bài/phần đọc.
+ Đọc thông tin trong sách giáo khoa và cho biết người Ê- đê xưa quy định về cách xử 
phạt như thế nào? ...
- HS làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, HS cần đọc lướt qua bài đọc/phần đọc để tìm 
ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung : HS đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới những gì mình đã 
biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các em phải tìm ra. Ví dụ: + 
Người xưa đặt ra luật tục để làm gì?
 + Theo em cách xử phạt của người Ê-đê thể hiện điều gì? ...
 + Tìm ý chính: HS tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập trung vào các ý 
quan trọng theo cách hiểu của mình. VD: Em có chú ý gì khi đọc
 + Tóm tắt ý chính.
- Trao đổi theo nhóm, đề xuất câu hỏi, thắc mắc với giáo viên.
* Sử dụng kĩ thuật Trình bày một phút: + Sau khi học xong em hãy ghi lại những nội dung em biết về dân tộc Ê – đê sau đó 
trình bày lại nội dung chính đó trong vòng 1 phút hoặc có thể liên hệ thực tế.
+ Các em đã thực hiện các quy định của người học sinh như thế nào? Em hãy chia sẻ 
cho các bạn cùng biết. (Học sinh ghi câu trả lời ra giấy sau đó trình bày trước lớp trong 
khoảng 1 phút).
- Học sinh thảo luận và đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. 
Sau mỗi báo cáo, Gv cùng lớp nhận xét, đánh giá, bổ sung, chốt kiến thức bằng hình 
ảnh, clip, thuyết minh sinh động, rõ ràng. Như vậy học sinh đã phát huy được năng 
lực tự học, năng lực hợp tác, kĩ năng trình bày, ... chủ động lĩnh hội kiến thức của 
bài. Điều này đồng thời đã thể hiện dạy học chú ý đến phát triển năng lực của học 
sinh.
 * Tăng cường hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy – rèn cho học sinh kĩ năng, 
thói quen thường xuyên lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức và phát triển năng 
lực.
Giáo viên cần tăng cường lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức cho học sinh từ đó rèn 
cho học sinh kĩ năng, thói quen tự lập sơ đồ tư duy trong các bài học phù hợp. Giáo 
viên thường xuyên yêu cầu học sinh vẽ lại sơ đồ tư duy vào vở, dựa vào sơ đồ tư duy 
để trình bày, cho chủ đề, nội dung để học sinh tự lập sơ đồ tư duy. Điều này tạo tiền đề 
thuận lợi rất lớn cho cac em khi học lên lớp 6.
* Ví dụ: Ở bài tập đọc lớp 5: Thầy thuốc như mẹ hiền
Sau khi cho học sinh luyện đọc, từ phần tìm hiểu bài giáo viên xây dựng thành lược đồ 
tư duy thể hiện nội dung bài. Từ khóa được chọn là Hải Thượng Lãn Ông. Thông qua 
hoạt động nhóm, dưới sự điều hành của các nhóm trưởng, học sinh tìm hiểu Lãn Ông 
là người như thế nào? Từ đó hình thành 2 nhánh của lược đồ tư duy: giàu lòng nhân ái, 
không màng danh lợi. Sau khi các em tìm được những việc làm, biểu hiện: Lãn Ông 
nghe tin con nhà thuyền chài bị bệnh đậu nặng nhưng nhà nghèo, không có tiền chữa, tự 
tìm đến thăm. Ông tận tụy chữa bệnh cho cháu bé suốt một tháng trời không ngại khổ, 
ngại bẩn. Chữa khỏi bệnh cho cháu bé, ông chẳng những không lấy tiền mà còn cho 
thêm gạo, củi... giáo viên hình thành các nhánh con thể hiện sự giàu lòng nhân ái. Cứ 
như vậy, trong quá trình tìm hiểu, phân tích nội dung, giáo viên tiếp tục hình thành tiếp 
các nhánh còn lại của lược đồ tư duy, hệ thống nội dung toàn bài rất cụ thể, có chiều 
sâu và dễ nhớ.
+ Ở phần Tìm hiểu bài, giáo viên áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực Lược đồ tư duy để 
giúp các em hệ thống được kiến thức, tự ghi nhớ kiến thức của bài học một cách ngắn 
gọn nhưng chính xác, đầy đủ và khoa học nhất.
4. Tăng cường thực hiện đổi mới cách học cho học sinh nhằm phát triển năng lực 
tự học cho học sinh. Việc đổi mới cách học ở đây thể hiện ở những nội dung sau:
4.1. Học sinh phải biết cách tự học, tự chuẩn bị bài:
a) Tự học:
Các em tự lực khám phá những điều chưa biết trên cơ sở những điều đã biết. Tham gia 
vào các hoạt động học tập, các em được đặt vào những tình huống, được trực tiếp quan 
sát, thảo luận, trao đổi, làm thí nghiệm, được khuyến khích đưa ra các giải pháp giải 
quyết vấn đề theo cách của mình. Được động viên trình bày quan điểm riêng của mỗi 
cá nhân. Qua đó người học không những chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ năng mới mà 
còn làm chủ cách thức xây dựng kiến thức, từ đó tính tự chủ và sáng tạo có cơ hội được 
bộc lộ, rèn luyện.
- Học sinh biết cách tự đọc sách giáo khoa, tiếp xúc với các lệnh, các yêu cầu của sách 
giáo khoa, tự huy động những kiến thức đã học, tự tìm hiểu kiến thức trên mạng Internet 
để tự tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức.
- Tự học phải được các em thực hiện thường xuyên :
+Tự học trên lớp đó là việc các em tự nghiên cứu ví dụ, ngữ liệu trong sách giáo khoa, 
tự trả lời câu hỏi để tìm hiểu bài và tự ghi lại các câu trả lời. Thể hiện việc tự học, tự 
chuẩn bị bài vào đầu giờ và cuối giờ dạy. Giáo viên kiểm tra bằng nhiều hình thức khác 
nhau: Giáo viên trực tiếp kiểm tra; các nhóm trưởng kiểm tra; trưởng ban học tập kiểm 
tra và báo cáo; ... Cuối giờ học, Giáo viên dặn dò học sinh chuẩn bị cho bài sau bằng 
những yêu cầu cụ thể, rõ ràng (học sinh có thể ghi vào vở giao việc).
 +Tự học ở nhà: đó là việc các em tự học lại bài cũ và nghiên cứu chuẩn bị bài mới.
Đối với lớp 5: Các em chưa có ý thức tự học, trên lớp các em thường làm theo yêu cầu 
của cô giáo, việc tìm hiểu bài thường dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo viên, các em 
ít có khả năng tự mình nghiên cứu và phát hiện ra kiến thức. Song đối với lớp 6 việc 
chủ động và tự mình phát hiện ra kiến thức là một yêu cầu và việc làm thường xuyên 
đối với lớp 6. Chính vì vậy việc xây dựng cho học sinh phương pháp tự học cần được 
giáo viên kết hợp với gia đình rèn cho học sinh từ những lớp dưới, tạo cho các em có ý 
thức học học tập tốt, có động cơ học tập đúng đắn và đặc biệt là các em có hứng thú đối 
với việc học tập. Cùng với việc định hướng trong việc tự học cho học sinh thì giáo viên 
cũng hướng dẫn cho học sinh sử dụng sổ tay toán học để ghi các quy tắc, kết luận, công 
thức tính S các hình....hoặc sổ tay văn học để ghi những từ ngữ hay mà giáo viên cung 
cấp thuộc các chủ đề, hoặc tự tìm đọc những bài văn hay- ghi lại những chi tiết, hình 
ảnh mình yêu thích. Từ những chi tiết hình ảnh đó, tập sáng tạo những câu văn theo ý 
thích của mình, ghi vào sổ tay, tập sử dụng những biện pháp nghệ thuật như nhân hoá, 
so sánh, liên tưởng...từ đó làm phong phú vốn từ và vốn văn học cho học sinh .
b) Tự chuẩn bị bài: Đối với học sinh Tiểu học các em được thầy cô hướng dẫn và giúp đỡ hoàn thiện bài 
tập ngay trên lớp, không cho bài tập về nhà đối với học sinh. Vì vậy việc chuẩn bị bài 
ở nhà của các em rất hời hợt, các em không có thói quen tự tìm hiểu bài trước, việc học 
thuộc các ghi nhớ cũng không thường xuyên.
Đối với lớp 6, việc chuẩn bị bài được coi là một yêu cầu bắt buộc, các em có một loại 
vở soạn văn (đối với môn Ngữ Văn) để các em tự đọc bài, tự trả lời câu hỏi và ghi vào 
vở. Bên cạnh đó việc kiểm tra miệng được diễn ra thường xuyên, mỗi lần kiểm tra 
miệng các em được đánh giá bằng điểm số và được ghi vào sổ điểm chính vì vậy việc 
chuẩn bị bài của các em là hết sức cần thiết.
Để giúp các em làm quen với cách học của lớp 6 thì giáo viên lớp 5 cần định hướng cho 
học sinh tự chuẩn bị bài. Đó là xem lại bài cũ và chuẩn bị bài hôm sau (đọc bài, ghi ý 
chính...). Rèn cho các em khả năng đọc hiểu câu hỏi, tự nghiên cứu kiến thức ở sách 
giáo khoa để hoàn thiện các lệnh, các yêu cầu cơ bản của sách giáo khoa. Đó là khả 
năng tự làm việc với sách hoặc tự trải nghiệm thực tế (quan sát đối tượng) tham gia hoạt 
động tại gia đình, tự tìm hiểu kiến thức trên mạng.... Đây là một việc làm hết sức cần 
thiết góp phần nâng cao chất lượng và rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh tiếp cận 
với yêu cầu soạn văn ở lớp 6 THCS.
Ví dụ: + Tập làm văn: Hôm sau có bài: Lập dàn ý về văn tả cảnh, thì hôm trước học 
sinh phải quan sát đối tượng miêu tả; ghi lại những ý quan sát được vào vở chuẩn bị bài 
(tương tự vở soạn văn của lớp 6) nhưng yêu cầu đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn để học 
sinh chuẩn bị bài một cách vừa sức.
+ Tập đọc: Hôm sau học bài Phong cảnh đền Hùng thì hôm trước học sinh cần sưu tầm 
các tranh ảnh, tư liệu về đền Hùng; ghi lại những hiểu biết của em về đền Hùng vào vở.
4.2. Học sinh biết cách tự ghi bài.
Đối với học sinh tiểu học việc tự ghi bài là việc rất hạn chế, các em thường ghi bài theo 
sự hướng dẫn, theo yêu cầu , theo bài mẫu của giáo viên, các em chưa chủ động trong 
việc chắt lọc ý chính để ghi bài.
Đối với lớp 6 các em phải tập trung nghe giảng, vừa ghi nhớ kiến thức vừa tự ghi lại ý 
chính của bài. Với cách học này cường độ học của các em sẽ cao hơn, yêu cầu các em 
sẽ phải tích cực hơn trong học tập. Vì vậy đổi mới cách học ở đây là việc định hướng 
cho học sinh tự ghi bài, tức là trong mỗi bài học, sau mỗi nội dung kiến thức, giáo viên 
chốt lại kiến thức và học sinh phải hiểu đó là những kiến thức cần ghi lại và các em sẽ 
ghi nhớ và tự ghi bài để vận dụng cho việc làm bài tập ở các tiết sau.
Các tiết buổi chiều ở lớp 5, giáo viên có thể cho học sinh ghi bằng bút bi, viết vào vở 
kẻ ngang để làm quen với cách ghi bài ở lớp 6. Khi các em viết vào vở ô li, các em phải 
viết nắn nót bằng bút máy, cẩn thận từng chữ cho đúng kích cỡ, mẫu chữ của tiểu học. 
Điều này đồng nghĩa với việc các em viết chậm, luôn phải tập trung vào từng ô li để viết cho đều, cho ngay ngắn. Nhưng lên lớp 6 các em phải chuyển sang viết vào vở kẻ 
ngang, nếu không có sự chuẩn bị làm quen, sự tiếp cận dần dần sẽ làm cho các em 
không theo kịp tốc độ, chữ sẽ nguệch ngoạc, rối tay, sai lỗi, chưa nói đến không ghi 
chép đủ nội dung dẫn đến hẫng hụt kiến thức và dần cảm thấy không có hứng thú học 
tập, ngại ghi chép bài, ... Chính vì vậy, giáo viên lớp 5 cần cho các em làm quen với 
cách ghi vở kẻ ngang vào các tiết Toán (tăng) hay Tiếng Việt (tăng) bằng bút bi. Các 
em sẽ rèn được tác phong nhanh nhẹn khi viết bài, khi chuyển giao giữa các tiết, phát 
triển được năng lực tự học của học sinh.
5. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm phát triển năng lực 
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho học sinh.
5.1. Với giáo viên:
Công nghệ thông tin có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương thức dạy 
– học nhất là khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của công nghệ 
thông tin. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT vào 
dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp 
học. Với thực tế nhà trường có 20/20 lớp có ti vi, máy vi tính, máy chiếu kết nối mạng 
internet là điều kiện thuận lợi để các giáo viên tăng cường ứng dụng thông tin trong 
giảng dạy. Giáo viên tăng cường khai thác, hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức 
thông qua máy tính trên lớp. Ngoài các bài học, các clip, hình ảnh sinh động trong các 
tiết dạy, giáo viên có thể cho học sinh tận dụng tìm kiếm tư liệu, tài liệu chuẩn bị cho 
bài học sau trong giờ ra chơi. Qua đó, các em cùng nhau tìm kiếm thông tin trên mạng, 
trao đổi, chọn lọc thông tin cần thiết ghi lại vào vở của mình phục vụ cho bài học. Điều 
này giúp học sinh phát triển được kĩ năng hợp tác, năng lực sử dụng Công nghệ thông 
tin, cùng nhau chuẩn bị bài. Ngoài ra, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng điện thoại 
thông minh, máy tính ở nhà để tìm kiếm thông tin chuẩn bị cho bài học. Tuy nhiên, cần 
có sự trao đổi ngay từ đầu năm học với phụ huynh học sinh để họ nắm rõ và định hướng 
cho học sinh sử dụng điện thoại, máy tính ở nhà một cách có hiệu quả.
* Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc (lớp 5): Luật tục xưa của người Ê- đê: Sau khi giới thiệu 
bài, GV cho HS nêu những điều em biết về dân tộc Ê- đê, GV giới thiệu thêm về dân 
tộc Ê- đê thông qua clip ... Việc GV ứng dụng CNTT như thế đã giúp học sinh được 
trải nghiệm qua màn ảnh nhỏ, tạo sự hứng thú rất lớn cho các em hoặc giáo viên có thể 
cho học sinh nêu nhiều điều em đã biết qua tìm hiểu trên mạng Internet về người Ê – 
đê...
5.2. Với học sinh:
Học sinh lớp 5 đã có các kĩ năng khai thác và xử lí thông tin trên mạng internet, giáo 
viên có thể cho các em ứng dụng công nghệ thông tin để tự học, tự chuẩn bị bài, tìm 
kiếm thông tin, sưu tầm tranh ảnh các clips chuẩn bị phục vụ cho bài học. Ví dụ: Chụp ảnh, gửi qua hòm thư điện tử khi học tập làm văn tả cảnh, .. (phân môn Tập làm văn), 
.... dưới sự giám sát của phụ huynh – giáo viên.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp các em được làm quen với hình ảnh trực quan 
sinh động. Học sinh được nhìn thấy nhiều hình ảnh và âm thanh thực tế ngoài đời. Học 
sinh hứng thú, tiếp thu bài nhanh, các em rất thích những tiết học có ứng dụng CNTT. 
Các em cũng được thực hành các thao tác công nghệ thông tin được học ở môn tin học 
vào việc chuẩn bị bài hay phát hiện kiến thức, ... giúp học sinh phát triển kĩ năng tự tìm 
ra kiến thức, nâng cao năng lực, hiểu biết của bản thân.
6. Định hướng cách soạn bài theo định hướng phát triển năng lực HS.
* Soạn bài:
- Khâu chuẩn bị (không phải giáo viên phải viết ra bài soạn, giáo viên phải dự kiến, xác 
định được trước khi soạn bài).
- Với mỗi bài học ngày từ khâu soạn bài giáo viên cần xác định khi học bài này học 
sinh cần được phát triển năng lực như thế nào? Cụ thể:
+ Tự chủ, tự học như thế nào?
+ Giao tiếp và hợp tác với nhau như thế nào?
+ Giải quyết vấn đề như thế nào? Và phát triển được năng lực đặc trưng môn học như 
thế nào?
Song điều quan trọng giáo viên phải định hướng con đường, cách thức học sinh sẽ thực 
hiện để phát triển được năng lực.
Ví dụ: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề - giáo viên xác định mục tiêu: học sinh 
được giải quyết vấn đề về cuộc sống, luật tục ở người Ê –đê.
Nội dung vấn đề nêu ra được thể hiện ở phần giới thiệu bài.
- Với mỗi năng lực trên giáo viên cần xác định hệ thống kiến thức cho phù hợp, dự kiến 
phương pháp, kĩ thuật dạy học, hình thức tổ chức để học sinh được hoạt động tích cực 
từ đó phát triển năng lực khác nhau.
* Với mỗi hoạt động dạy học thì giáo viên cần thể hiện rõ nội dung – phương pháp sử 
dụng, hình thức tổ chức và kĩ thuật dạy học.
Ví dụ: tiết tập đọc: Một vụ đắm tàu
Mục tiêu....
* Giảng dạy:
 Với sự chuẩn bị 1 giáo án chu đáo, giáo viên sẽ tự tin, chủ động khi lên lớp. Tuy nhiên 
không phải tiết nào chúng ta cũng yêu cầu giáo viên làm như vậy, không phải tiết nào cũng phát huy hết các năng lực của học sinh mà tùy thuộc vào đối tượng học sinh, vào 
năng lực của giáo viên, vào đặc trưng của môn học. Mỗi môn học, mỗi tiết dạy chúng 
ta sẽ có những phương pháp, cách thức tổ chức, kĩ thuật dạy học phù hợp để phát triển 
một số năng lực cho học sinh.
Trên thực tế giáo viên chúng ta cũng đã làm: Ví dụ: sử dụng phương pháp hoạt động 
nhóm, hay phương pháp nêu tình huống... Song nhiều khi chúng ta làm chưa hiệu quả, 
học sinh chưa thực sự hoạt động nên chúng ta chưa đạt tới mục tiêu dạy học nhằm phát 
triển năng lực học sinh.
Ví dụ: mục tiêu – tiết Tập làm văn: Tả cảnh:
+ Học sinh được trải nghiệm, được quan sát, phân tích, tổng hợp để tìm ra những hình 
ảnh, từ ngữ miêu tả ngôi trường ( phát triển năng lực tự học, quan hệ hợp tác gắn liên 
với thực tế cuộc sống). Không cần ghi là phát triển năng lực tự học...(không phải ghi cụ 
thể tên các năng lực vào mục tiêu).
- Để xác định mục tiêu của tiết học phát huy năng lực cho học sinh, giáo viên cần hiểu: 
lồng ghép những năng lực cần đạt được vào yêu cầu kiến thức, kĩ năng, thái độ cần đạt 
của bài.
- Việc phát triển năng lực thông qua các hoạt động tìm hiểu kiến thức của bài chính là 
cách tổ chức các hoạt động cho học sinh được trải nghiệm, giải quyết vấn đề, hoạt động 
nhóm nhằm tìm hiểu ra nội dung của bài – thể hiện qua một số từ ở phần mục tiêu.
VD: Học sinh được giải quyết vấn đề.
+ Học sinh được trải nghiệm... – tổ chức hoạt động trải nghiệm – phát triển năng lực 
vận dụng vào cuộc sống thực tiễn.
+ Học sinh được tự luyện đọc, hoạt động nhóm – phát triển năng lực hợp tác...
+ Học sinh được thực hành... ( Khoa học, Toán).
+ Học sinh được tích lũy, tổng hợp, vận dụng kinh nghiệm sống...
Với những cụm từ như vậy tức là chúng ta đã tìm ra cách tổ chức cách hoạt động 
để phát triển năng lực cho học sinh.
VD: Học sinh được giải quyết vấn đề - tức là chúng ta đã sử dụng phương pháp giải 
quyết vấn đề - tìm ra kiến thức của bài đồng thời phát triển năng lực giải quyết vấn đề.
- Môn khoa học, Đạo đức, Tự nhiên xã hội dễ hơn. Ví dụ: học sinh được thí nghiệm, 
được tổng hợp kiến thức kinh nghiệm cuộc sống...
- Học sinh được giải quyết tình huống liên quan đến bài (Khoa học, TNXH..)
Tiết Tập đọc : Một vụ đắm tàu . 1. Những hoạt động giáo dục để phát triển năng lực học sinh:
 - Luyện đọc đúng.
 + Đọc nối tiếp trong nhóm đôi.
 + Đại diện nhóm đọc trước lớp .
 - Tìm hiểu bài :
 + Học sinh thảo luận nhóm 4 ,trao đổi kiến thức trình bày trước lớp .
 + Dùng sơ đồ tư duy ghi những hành động, việc làm, nét tính cách của hai nhân 
 vật.
 - Luyện đọc diễn cảm :
 + Tự lựa chọn đoạn mình thích để đọc.
 + Nêu cách đọc diễn cảm.
 - Thực hành viết đoạn văn, thơ, kể chuyện về hai nhân vật.
 2. Những hoạt động giáo dục để học sinh lớp 5 tiếp cận với phương pháp học của 
 học sinh lớp 6:
 - Chuẩn bị bài , soạn bài trước ở nhà .
 - Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm.
 - Tự ghi vở .
IV . KHUNG KẾ HOẠCH BÀI DẠY (THEO CV 2345/BGD – ĐT)
I. Yêu cầu cần đạt:
 Khi xác định yêu cầu cần đạt cần xác định rõ: HS thực hiện được việc gì, vận 
 dụng được những gì vào giải quyết vấn đề trong thực tế cuộc sống, có cơ hội 
 hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực gì.
II. Đồ dùng dạy học: Nêu các thiết bị, học liệu được sử dụng trong bài dạy để tổ chức 
cho HS hoạt động nhằm đạt yêu cầu cần đạt của bài dạy.
III. Các hoạt động dạy học: GV cần linh hoạt sáng tạo, đa dạng theo tính chất của bài 
học. Các hoạt động gồm:
1. Hoạt động mở đầu (khởi động, kết nối)
 2. Hoạt động hình thành kiến thức mới: trải nghiệm, khám phá, phân tích, hình 
 thành kiến thức mới (đối với bài hình thành kiến thức mới)
3. Hoạt động luyện tập, thực hành 4. Hoạt động vận dụng trải nghiệm (nếu có)
IV. Điều chỉnh sau bài dạy (nếu có)

File đính kèm:

  • docxskkn_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_mon_tieng_viet_o_lop_5_theo.docx