Sáng kiến kinh nghiệm - Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy và học Sinh học - Trần Thanh Thủy
A.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, nhiều học sinh chưa biết cách học, mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Với đặc trưng riêng của môn Sinh học: môn học nghiên cứu đối tượng sống bao gồm: nghiên cứu các đặc điểm cấu tạo, các quá trình sinh lí, hóa sinh, các mối quan hệ giữa các tổ chức sống với nhau và với môi trường, sự vận động của thế giới sống qua không gian và thời gian, thì phương pháp chuyển tải bằng sơ đồ thường mang lại hiệu quả cao.
Trong giảng dạy GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy- học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não,
động của thế giới sống qua không gian và thời gian, thì phương pháp chuyển tải bằng sơ đồ thường mang lại hiệu quả cao. Trong giảng dạy GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy- học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não, Việc ứng dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, họat động nhóm có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy và học xưa nay thường gắn nhiều với khoa học công nghệ, đòi hỏi hạ tầng cơ sở vật chất tốt. Những điều kiện này lại thường khó thực hiện ở vùng sâu vùng xa, nơi kinh tế còn nhiều khó khăn. Với BĐTD, nhiều trường học ở các tỉnh vùng sâu, vùng cao vẫn có thể áp dụng. Với những lý do trên dã đưa tôi đến chọn đề tài “ Ứng dụng Bản Đổ Tư Duy trong dạy và học Sinh học ”. B.NỘI DUNG I. VAI TRÒ CỦA BĐTD TRONG DẠY - HỌC Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là Sơ đồ tư duy, Lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não. Ưu điểm của cách ghi chép bằng bản đồ tư duy: *Lôgíc, mạch lạc. *Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ. *Nhìn thấy “bức tranh” tổng thể mà lại chi tiết. *Kích thích hứng thú học tập của học sinh. *Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. *Giúp hệ thống hóa kiến thức. II. CÁCH SỬ DỤNG BĐTD TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC CẤP THCS: Bước 1: Bắt đầu từ một chủ đề chúng ta sẽ ghi lại một từ hoặc một hình ảnh tượng trưng cho ý tưởng đầu tiên. Bước 2: Viết ra hoặc vẽ lại những điều đầu tiên xuất hiện trong đầu khi bắt đầu nghĩ về vấn đề liên quan quanh chủ đề. Bước 3: Khi các ý tưởng nảy sinh, hãy viết ra một hoặc hai từ mô tả ý tưởng đó trên các nhánh lớn,nhánh nhỏ Bước 4: Diễn dịch các ý tưởng dưới dạng các từ ngữ, hình ảnh, số hoặc biểu tượng. Bước 5: Sử dụng bút màu để phân biệt các ý tưởng. Bước 6: Thêm các liên kết, các mối liên hệ và có thể kết nối ý phụ với ý chính. II. CÁCH SỬ DỤNG BĐTD TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC CẤP THCS: *Một số chú ý khi vẽ bản đồ tư duy: -Màu chữ cùng màu nhánh để dễ phân biệt. -Nên dùng các đường cong. -Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. -Chỉnh sửa, thêm bớt thông tin, thêm bớt nhánh, điều chỉnh sao cho hình thức đẹp, chữ viết rõ (trên phần mềm). Nếu vẽ trên giấy, bìa thì nên vẽ phác bằng bút chì trước để có thể tẩy, xóa, điều chỉnh được. *Những điều cần tránh khi ghi chép: -Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài. -Ghi chép quá nhiều ý không cần thiết. -Chỉ nên vẽ hình ảnh có liên quan đến chủ đề. -Chọn lọc những ý cơ bản, kiến thức cần thiết. 3.Lợi ích của phương pháp Mind Mapping Học tập : Người học giảm được khối lượng công việc, cảm thấy thoải mái khi học, ôn bài và làm kiểm tra. Ngoài ra, tạo sự tự tin vào khả năng học của người học. Tổng kết : Có được cái nhìn toàn bộ, bao quát, hiểu được các mối liên hệ. Tập trung : Tập trung vào công việc để có kết quả tốt hơn. Dễ nhớ : ‘Thấy’ được thông tin trong đầu. III. VẬN DUNG BĐTD VÀO THỰC TẾ GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC CẤP THCS: 1. Lập bản đồ tư duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ: - Sử dụng bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ tư duy thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ 1: Trước khi học bài “Sự lớn lên và phân chia của tế bào” – Sinh học 6. Ví dụ 2: Trước khi học bài “Bạch cầu – Miễn dịch” – Sinh học 8 2. Lập bản đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới: Giáo viên có thể tổ chức: -Hoạt động nhóm (GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học). -Cho HS lên trình bày, thuyết minh thông qua một BĐTD do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc BĐTD mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. GV có thể giới thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung 1 kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu cần). * Dạy một nội dung kiến thức của bài. Ví dụ: Khi dạy bài “ Hoạt động hô hấp ” – Sinh học 8, dựa vào hình 21.2 có thể cho học sinh hoạt động nhóm lập BĐTD (sơ đồ minh họa) Ví dụ: Khi dạy bài “ Máu và môi trường trong cơ thể ” – Sinh học 8, dựa vào thông tin ở sách giáo khoa có thể cho học sinh hoạt động nhóm lập BĐTD hoặc giáo viên đặt câu hỏi gợi mở rồi từ từ hình thành một BĐTD ( sơ đồ minh họa) Dạy một nội dung kiến thức của bài. Ví dụ: Khi dạy bài “Môi trường và các nhân tố sinh thái ” – Sinh học 9, dựa vào thông tin SGK, GV có thể cho học sinh hoạt động nhóm lập BĐTD về các nhân tố sinh thái (sơ đồ minh họa) * Dạy nội dung kiến thức mới cả bài Ví dụ: Khi dạy bài: Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh vật – Sinh học 9 Đột biến gen- Sinh học 9 Bệnh và tật di truyền- Sinh học 9 Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa- Sinh học 8 Tiêu hóa ở khoang miệng - Sinh học 8 Châu chấu- Sinh học 7 Rêu- cây Rêu- Sinh học 6 Sự phát tán quả và hạt- Sinh học 6..... 3. Lập bản đồ tư duy trong việc dạy tiết thực hành: Ví dụ: Khi dạy bài “ Tôm sông ” – Sinh học 7 (chuyển thành thực hành quan sát cấu tạo ngoài và hoạt động sống). 4. Lập bản đồ tư duy trong việc dạy củng cố kiến thức: Có thể sử dụng BĐTD củng cố một nội dung của bài học hoặc củng cố cả bài. Ví dụ: Khi dạy xong phần I bài “ Lớp hai lá mầm và lớp một lá mầm” – Sinh học 6, 5. Lập bản đồ tư duy trong việc dạy tiết tổng kết ôn tập kiến thức: Ví dụ: Khi dạy xong chương Rễ – Sinh học 6 Ngành ĐV không xương sống- Sinh học 7 Chương ADN vaø gen- Sinh học 9 Các loại đột biến- Sinh học 9 Tuần 8 Tiết 16 . Ngày soạn: 5/10/2012. Ngày dạy: 12/10/2012. Chương III – ADN và gen Bài 15: ADN 1. Mục tiêu. - Học sinh phân tích được thành phần hoá học của ADN đặc biệt là tính đặc thù và hình dạng của nó. - Mô tả được cấu trúc không gian của ADN theo mô hình của J. Oatsơn và F. Crick. - Phát triển kĩ năng quan sát và phân tích kênh hình. 2. Chuẩn bị. - Tranh phóng to hình 15 SGK. - Mô hình phân tử ADN. 3. Hoạt động dạy - học. 3.1. Ổn định tổ chức. 3.2. Kiểm tra. 3.3. Bài mới. GV: ADN không chỉ là thành phần quan trọng của NST mà còn liên quan mật thiết với bản chất hoá học của gen. Vì vậy nó là cơ sở vật chất của hiện tượng di truyền ở cấp độ phân tử. Hoạt động 1: Cấu tạo hoá học của phân tử ADN Hoạt động của GV Hoạt động của HS - GV yêu cầu HS nghiên cứu thông tin SGK để trả lời câu hỏi: - Nêu cấu tạo hoá học của ADN? - Vì sao nói ADN cấu tạo theo nguyên tắc đa phân? - Yêu cầu HS đọc lại thông tin, quan sát H 15, thảo luận nhóm và trả lời: Vì sao ADN có tính đa dạng và đặc thù? - GV nhấn mạnh: cấu trúc theo nguyên tắc đa phân với 4 loại nuclêôtit khác nhau là yếu tố tạo nên tính đa dạng và đặc thù. - HS nghiên cứu thông tin SGK và nêu được câu trả lời, rút ra kết luận. + Vì ADN do nhiều đơn phân cấu tạo nên. - Các nhóm thảo luận, thống nhất câu trả lời. + Tính đặc thù do số lượng, trình tự, thành phần các loại nuclêôtit. + Các sắp xếp khác nhau của 4 loại nuclêôtit tạo nên tính đa dạng. " Kết luận. Kết luận: - ADN được cấu tạo từ các nguyên tố C, H, O, N và P. - ADN thuộc loại đại phân tử và cấu tạo theo nguyên tắc đa phân mà đơn phân là các nuclêôtit (gồm 4 loại A, T, G, X). - Phân tử ADN của mỗi loài sinh vật đặc thù bởi số lượng, thành phần và trình tự sắp xếp của các loại nuclêôtit. Trình tự sắp xếp khác nhau của 4 loại nuclêôtit tạo nên tính đa dạng của ADN. - Tính đa dạng và đặc thù của ADN là cơ sở phát triển cho tính đa dạng và đặc thù của sinh vật. Hoạt động 2: Cấu trúc không gian của phân tử ADN Hoạt động của GV Hoạt động của HS - Yêu cầu HS đọc thông tin SGK, quan sát H 15 và mô hình phân tử ADN để: - Mô tả cấu trúc không gian của phân tử ADN? - Cho HS thảo luận - Quan sát H 15 và trả lời câu hỏi: - Các loại nuclêôtit nào giữa 2 mạch liên kết với nhau thành cặp? - Giả sử trình tự các đơn phân trên 1 đoạn mạch của ADN như sau: (GV tự viết lên bảng) hãy xác định trình tự các nuclêôtit ở mạch còn lại? - GV yêu cầu tiếp: - Nêu hệ quả của nguyên tắc bổ sung? - HS quan sát hình, đọc thông tin và ghi nhớ kiến thức. - 1 HS lên trình bày trên tranh hoặc mô hình. - Lớp nhận xét, bổ sung. - HS thảo luận, trả lời câu hỏi. + Các nuclêôtit liên kết thành từng cặp: A-T; G-X (nguyên tắc bổ sung) + HS vận dụng nguyên tắc bổ sung để xác định mạch còn lại. - HS trả lời dựa vào thông tin SGK. Kết luận: - Phân tử ADN là một chuỗi xoắn kép, gồm 2 mạch đơn song song, xoắn đều quanh 1 trục theo chiều từ trái sang phải. - Mỗi vòng xoắn cao 34A0 gồm 10 cặp nuclêôtit, đường kính vòng xoắn là 20A0 - Các nuclêôtit giữa 2 mạch liên kết bằng các liên kết hiđro tạo thành từng cặp A-T; G-X theo nguyên tắc bổ sung. - Hệ quả của nguyên tắc bổ sung: + Do tính chất bổ sung của 2 mạch nên khi biết trình tự đơn phân của 1 mạch có thể suy ra trình tự đơn phân của mạch kia. + Tỉ lệ các loại đơn phân của ADN: A = T; G = X " A+ G = T + X (A+ G): (T + X) = 1. 4. Củng cố Khoanh tròn vào chữ cái trả lời đúng: 1. Những yếu tố nào dưới đây qui định tính ®a d¹ng vµ đặc thï của mỗi loại ADN: a. ADN tập trung trong nhân tế bào và có khối lượng
File đính kèm:
- sang kien day hoc theo ban do tu duy.doc