Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp dạy kiến thức giải phẫu hình thái môn Sinh học 8

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

1. Cơ sở lí luận.

 Để thực hiện tốt nghị quyết trung ương II khoá VII & nghị quyết trung ương II khoá VIII tháng 12/ 1996 về việc đổi mới phương pháp dạy học với mục đích: phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh:

- Bồi dưỡng phương pháp tự học.

- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vàothực tiễn.

- Tác động đến tình cảm đêm lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh.

 Qua việc thực hiện thay sách giáo khoa các lớp khối THCS là một bước ngoặt, bước tiến mới trong công cuộc đổi mới nền giáo dục nước ta, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Muốn vậy đòi hỏi người thầy phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với nhu cầu đổi mới giáo dục. Để góp phần thực hiện mục tiêu “Đào tạo học sinh thành những con người năng động, độc lập, sáng tạo tiếp thu được những tri thức khoa học, kĩ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho vấn đề trong cuộc sống của bản thân & của xã hội”. Bộ môn sinh học cũng như các bộ môn khác ở THCS đang cố gắng đổi mới phương pháp dạy học.

 Thông qua các giờ dạy hoặc khi tiếp xúc với học sinh trong các buổi trò truyện tôi thấy học sinh đa số ham học hỏi thích tự mình tìm ra điều mới lạ hay khi trả lời tìm ra đượckiến thức mới các em rất vui sướng, niềm vui sướng ấy thể hiện trên khuôn mặt đầy tự hào của các em. Đọc được suy nghĩ đó của các em, trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là những năm gần đây tôi đã không ngừng tìm tòi cải tiến phương pháp dạy học. Một trong những phương pháp mà tôi cảm thấy tâm đắc và đem lại kết quả bước đầu là: “Phương pháp dạy kiến thức hình thái giải phẫu”. Qua các giờ dạy áp dụng phương pháp này bộ môn sinh học nói chung và môn sinh học 8 nói riêng, tôi được đại đa số học sinh ủng hộ đã tạo được niềm vui, niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Thông qua việc cải tiến này giúp các em tự học tự chiếm lĩnh tri thức khoa học.

2. Cơ sở thực tiễn.

 Qua nhiều năm thực tế giảng dạy điều mà tôi trăn trở là làm thế nào để học sinh tiếp cận với bộ môn giải phẫu sinh lý người và vệ sinh. Để từ đó có sự yêu thích say mê môn học.

 Ngay từ những năm đầu tiên tôi trực tiếp giảng dạy và nhận thấy trong một lớp tỉ lệ học sinh yêu thích môn học còn ít chính vì vậy ảnh hưởng rất lớn tới kết quả học tập cuối năm của học sinh.

 Có thể dẫn ra ví dụ như sau về kết quả tổng kết cuối năm học sinh lớp 9 năn học 2001-2002 như sau:

 - Tổng số học sinh 28

 

doc17 trang | Chia sẻ: lethuong715 | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp dạy kiến thức giải phẫu hình thái môn Sinh học 8, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Hình thức này buộc các thành viên trong nhóm cùng hoạt động, cùng làm việc trao đổi thảo luận với nhau.
Chương II: Các biện pháp thực hiện cải tiến giảng dạy
1. Soạn bài học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
Xác định kiến thức cơ bản của mỗi bài, lựa chọn những kiến thức cơ bản để có thể vận dụng các phương pháp dạy học, nhằm tích cực hoạt động của học sinh.
	Theo tôi muốn tổ chức cho học sinh họt động học tập tích cực để có thể tự mình tìm tòi, khám phá tri thức cần có thời gian, nếu tham kiến thức thì cuối cùng lại sa vào lối truyền thụ theo kiểu “áp đặt” buộc học sinh thụ động tiếp thu. Vì vậy việc đầu tiên khi soạn bài tôi thấp phải xác định kiến thức trọng tâm có thể hường dẫn học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, những kiến thức khác có thể học sinh tự học theo SGK hoặc sử dụng phương pháp giảng giải ngắn gọn. Đối với những đơn vị kiến thức lớn, phức tạp có thể chia nhỏ chúng thành nhiều nhiệm vụ nhận thức rồi phân công các nhóm học sinh khác cùng nhau thực hiện trong cùng một thời gian. Làm như vậy vừa bảo đảm nội dung của bài, vừa bảo đảm yêu cầu dạy học sinh cách học trong hoàn cảnh hiện nay.
b. Xác định con đường thích hợp giúp học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức theo lô gích của quá trình hình thành các kiến thức đó. Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy mỗi loại kiến thức cần có một cách tiếp cận phù hợp.
Kiến thức về đặc điểm hình thái và cấu tạo bên ngoài của các cơ quan & hệ cơ quan. Muốn giúp cho học sinh có thể tìm tòi phát hiện ra các kiến thức này cần phải tạo điều kiện cho các em được tự quan sát nhiều đối tượng mẫu vật, tiêu bản tranh ảnh .... Từ đó vận dụng các thao tác so sánh, phân tích tự tìm ra đặc điểm chung & riêng, các dấu hiệu bản chất & phân biệt giữa các đối tượng...
	Kiến thức về giải phẫu: Học sinh phải được tự tay mổ sẻ để xác định vị trí, thành phần cấu tạo của nó. Học sinh phải thể hiện được kết quả quan sát bằng hình vẽ, lời mô tả, hoặc ghi chú vào sơ đồ câm tên những bộ phận, phân tích mối quan hệ giữa cấu tạo & chức năng, từ đó tìm ra những kiến thức cần thiết về đối tượng cần nghiên cứu.
	Thiết kế một hệ thống các hoạt động học tập & xác định các hình thức tổ chức học tập để hướng dẫn học sinh tìm ra tri thức mới của bài học.
	Ví dụ: Khi tìm hiểu hoạt động “Bài bộ xương:|” với nội dung tìm hiểu các phần chính của bộ xương & chức năng của nó, tìm ra được điểm giống và khác nhau giữa xương tay và xương chân. Qua việc xác định được mục tiêu của hoạt động này tôi đã tiến hành những hoạt động học tập của học sinh và tổ chức thực hiện các hoạt động đó như sau:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
- GV đưa mô hình bộ xương người yêu cầu HS quan sát mô hình:
+ Chỉ trên mô hình các phần chính của bộ xương.
- GV yêu cầu các HS quan sát H7.1 -> 7.3 nghiên cứu mục lệnh đề € và thảo luận nhóm hoàn thành yêu cầu lệnh đề đó.
- Một HS đại diện 1 nhóm báo cáo kết quả bằng câu hỏi sau:
? Bộ xương người chia làm mấy phần chính? Là những bộ phận nào?
? Bộ xương người có chức năng gì? tìm điểm giống và khác nhau giữa xương tay và xương chân?
- GV nhóm nào có ý kiến khác nhóm bạn? (yêu cầu bổ sung). Sau đó GV chuẩn hoá lại kiến thức để học sinh ghi bài
- HS lên bảng chỉ mô hình các phần chính của bộ xương. 
- Các HS còn lại quan sát, nhận xét bổ sung
- HS thảo luận nhóm theo yêu cầu.
- HS báo cáo kết quả các nhóm khác nghe nhận xét và bổ sung
- Các nhóm đưa ra ý kiến
c. Lập kế hoạch chuẩn bị đồ dùng cho tiết học.
	Giáo viên cần có kế hoạch chuẩn bị chu đáo đồ dùng học tập căn cứ vào dự kiến các hoạt động học tập & đôn đốc kiểm tra phát hiện kịp thời những khó khăn để có biện pháp khắc phục tránh tình trạng bị đông.
Các phương tiện khác:
+ Phiếu học tập: Gồm các bài tập giúp các em ghi lại kết quả quan sát các chi thức đã tìm tòi phát hiện trong tiết học.
+ Phiếu kiểm tra đánh giá tiết học do tôi chuẩn bị sẵn phát cho các nhóm thường là dưới hình thức câu hỏi trắc nghiệm, thông thường có 4 loại sau: 
Một là câu hỏi có nhiều lựa chọn gồm 2 phần “phần gốc” và phần “phần lựa chọn”
Phần gốc là một câu hỏi hay một câu hỏi bỏ lửng giúp học sinh làm bài có thể rõ câu trắc nghiệm ấy muốn hỏi gì để lựa chọn câu trả lời thích hợp.
Phần lựa chọn gồm nhiều lời giải đáp đó là lời giải đáp được dự định cho là đúng nhất, những lời giải còn lại là những “mồi nhử”. Điều quan trọng là làm sao cho những “mồi nhử” ấy đều hấp dẫn ngang nhau.
Hai là câu hỏi ghép đôi (câu trắc nghiệm nhiều cặp từ) ở dạng này học sinh làm bài phải lựa chọn câu nào, từ nào cho phù hợp nhất với câu hỏi trắc nghiệm đã cho.
Ba là câu hỏi đúng sai (loại câu hỏi trắc nghiệm đúng sai) cách lựa chọn được trình bày dưới dạng một câu phát biểu. Học sinh phải lựa chọn bằng cách chọn đúng (Đ) hay sai (S).
Ví dụ: Hãy đánh dấu (Đ) vào đầu trả lời mà em cho là đúng.
	Bắp cơ điển hình có cấu tạo : 
Sợi cơ có vân sáng, vân tối 
Bó cơ và sợi cơ.
Có màng liên kết bao bọc,hai đầu thon, giữa phình to
Gồm nhiều sợi cơ tập trung thành bó cơ
Cả a, b, c, d
Chỉ có c và d
* Bốn là câu hỏi điền khuyết dạng câu điền vào chỗ trống có thể sử dụng trong một số trường hợp sau: khi trả lời câu hỏi rất ngắn và tiêu chuẩn đúng sai là không rõ rệt, hay ta không tìm đủ số câu nhiều (mồi nhử) tối thiểu cần thiết cho loại câu nhiều lựa chọn.
	Bản thân tôi cũng phải chuẩn bị đầy đủ những phương tiện giúp học sinh thực hện các hoạt động học tập để kịp thời bổ sung nếu học sinh chuẩn bị thiếu và tôi cũng thực hiện các thí nghiệm để đối chiếu với kết quả của học sinh.
2. Xây dựng hệ thống bài tập.
Các dạng bài tập.
Một trong các dạng bài tập tôi thường sử dụng là:
Bài tập quan sát hình thái 
Bài tập giải phẫu
Bài tập sưu tầm thống kê
	Trong các dạng bài tập chú ý phối hớp vận dụng các thao tác tư duy của học sinh như: Đối chiếu, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá
P hiếu học tập:
	Các dạng bài tập sinh học là nội dung chủ yếu của phiếu học tập sinh học. Bài tập cần soạn thật cô đọng & nên trình bày dưới dạng của bảng thống kê, so sánh: Các kiểu bài làm trắc nghiệm ..... bài so sánh, phân loại với các khoảng trống dành cho việc ghi nhận xết, đánh giá.... Phiếu học tập giúp ít nhiều cho việc thực hiện các yêu cầu đòi hỏi học sinh suy nghĩ nhiều hơn. Đồng thời nó cho phép tôi kiểm tra được kết quả & khối lượng công việc của học sinh. Để làm được công việc này tôi cũng cần phải chuẩn bị trước nội dung của phiếu rồi nhân bản để phát đến học sinh.
Sử dụng các dạng bài tập.
	Khi soạn bài tôi thấy cần lựa chọn bài tập phù hợp với nội dung & đối tượng học sinh, sắp xếp theo lô gích nhận thức. Để khi giải học sinh sẽ tiếp cận với tri thức mới.
3. Quá trính thực hiện một tiết lên lớp & một số thủ thuật sư phạm.
 	Tiết lên lớp là sự thực hiện kế hoạch đã được vạch ra trong bài soạn kết hợp với sự điều chỉnh cho phù hợp vói những đối tượng học sinh ở các lớp cụ thể:
	 Mỗi loại bài có những bước đi chung nhất, có tính chất quy trình mà theo tôi các giáo viên cần lưu ý khi thực hiện một tiết dạy.
Kiểm tra việc thực hiện một tiết học của học sinh.
	Việc thực hiện, kiểm tra sẽ giúp giáo viên có thể chủ động thực hiện bài soạn, kịp thời bổ sung phần học sinh chuẩn bị thiếu, hoặc điều chỉnh hình thức hoạt động dạy học cho phù hợp.
	Cần động viên những ưu điểm và nghiêm khắc nhắc nhở những thiếu sót để tạo cho HS có thói quen chuẩn bị đầy đủ dễ dàng học tập cho tiết học.
Nêu vấn đề vào bài.
	Nếu nêu vấn đề hấp dẫn sẽ kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của HS tạo ra cho các em nhu cầu muốn tìm tòi phát hiện tri thức, từ đó HS sẽ tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động học tâp.
Hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập để tìm tòi tri thức mới.
	Bằng lời giải thích ngắn ngọn người thầy cần nêu rõ:
Thứ tự các loại hoạt động mà học sinh phải thực hiện.
Mục đích của hoạt động và yêu cầu sản phẩm cần đạt.
Hình thức tổ chức để thực hiện các hoạt động.
Cách bố trí chỗ ngồi và thời gian thực hiện các hoạt động.
Theo dõi hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập.
	Yêu cần đạt của người theo dõi bảo đảm cho học sinh được tự lực, chủ động, hoạt động tự bộc lộ khả năng nhận thức dù có sai sót. Tôi chỉ gợi ý trong trường hợp HS thực sự tỏ ra lúng túng hoặc đã làm lạc hướng.
	Trong tiết dạy tôi thấy cần bao quát lớp để nắm được trình độ nhận thức của HS qua hoạt động học tập. Sớm phát hiện những thắc mắc và những tình huống mới nảy sinh để có thể chủ động khi tổng kết hoạt động.
Hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận kết quả học tập (về những nhận xét kết luận đã rút ra). Trong quá trình hướng dẫn cần chú ý thực hiện: 
	- Tạo điều kiện để HS phát biểu hết các loại ý kiến khác nhau.
	- Cần hướng dẫn HS vào việc trao đổi kỹ những khía cạnh còn sai hoặc thiếu.
	- Những ý kiến đúng của HS và những ý kiến sáng tạo cần được cho điểm đánh giá ngay. 
Dành đủ thời gian cho kết luận của bài, hướng dẫn bài tập về nhà và đánh giá cuối tiết học.
	Phần kiểm tra đánh giá cuối tiết học sẽ giúp cho HS tự đánh giá được trình độ nhận thức của mình. Đồng thời giáo viên phát hiện những thiếu sót để có thể tiếp tục giúp các em bổ sung trong tiết học sau hoặc những điểm giáo viên cần tự khắc phục.
	Trong phần hướng dẫn về nhà tôi thấy không thể thiếu được phần chuẩn bị cho tiết học sau. Mà muốn cho tiết học sau đạt kết quả cao thì phần chuẩn bị phải thật chu đáo.
	Làm được những điều trên thì chúng ta mới hoàn chủ động và có thể điều chỉnh kịp thời những tình huống cụ thể xảy ra và có thể yên tâm thực hiện được kế hoạch và phương pháp dạy kiến thức hình thái giải phẫu nói riêng và các đơn vị kiến thức của môn sinh học nói chung.
 Chương III: Ví dụ về phương pháp soạn giảng dạng bài hình thái giải phẫu
	Bước vào đầu năm học tôi nghiên cứu toàn bộ cấu trúc chương trình sinh học 8 và xem xét lại toàn bộ nội dung phân phối chương trình, để từ đó lựa chọn các bài có thể áp dung theo phương pháp này. phần nào có thể áp dụng được, phần không để từ đó chủ động trong công tác soạn giảng. Qua tìm hiểu tôi đã tìm ra được một số bài có thể áp dụng cho cả bài hoặc từng phần trong bài. Dưới đây tôi xin trình 

File đính kèm:

  • docSKKN sinh.doc