Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa- Chính trị thế giới
Địa- chính trị là một môn khoa học đã có ngay từ khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia- dân tộc. Tuy nhiên, cũng còn không ít những quan điểm sai trái do các lực lượng chính trị phản động lợi dụng để phục vụ cho các tư tưởng dân tộc cực đoan, chủ nghĩa phát xít., nhất là trong 2 cuộc Đại chiến thế giới. Do vậy trong một thời gian dài, khoa học địa- chính trị đã bị lãng quên, phải đến thập kỷ 60 trở lại đây, bộ môn khoa học này mới bắt đầu được chú ý trở lại và dần dần phát triển phù hợp với các xu thế mới của thế giới.
ến cáo các chính trị gia không được xem thường hoặc phủ nhận các vấn đề đó. ở thời kỳ chiến tranh lạnh, trật tự hai cực Xô - Mỹ đã phân chia thế giới thành hai phe, hai hệ thống xã hội đối lập nhau. Sự tập hợp lực lượng xung quanh các siêu cường này càng làm rõ nét những khu vực và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng của các chế độ xã hội khác nhau. Để bảo vệ mình và đồng minh, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đứng đầu là Liên Xô lúc đó đã thành lập ra Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) vào năm 1949 và khối Vacsava năm 1955. Còn Mỹ và các nước phương Tây lập ra Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) năm 1949. Đồng thời, các nước tư bản đã thành lập 130 căn cứ quân sự ở Tây Âu và 500 căn cứ quân sự ở Châu á - Thái Bình Dương, tạo thành vành đai địa- chính trị bao vây và ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, hai siêu cường thế giới đã xây dựng và phát triển lực lượng chính trị - quân sự nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược riêng. Vì vậy, trong thời kỳ chiến tranh lạnh (nhất là những năm 60-70), việc nghiên cứu địa - chính trị phát triển mạnh ở Mỹ, Tây Âu và Liên Xô (trước đây). Nó phản ánh cuộc đối đầu gay gắt giữa các phe Xô - Mỹ, Đông - Tây, chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa tư bản.... Trong bối cảnh đó, Saul Cohen cho rằng, việc hoạch định đường lối đối ngoại của Mỹ phải tiếp cận từ giác độ các lý thuyết địa - chính trị. Năm 1964, Cohen đã đưa ra bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa - chiến lược dưới áp lực của các siêu cường. Từ khu vực địa - chiến lược, Cohen chia nhỏ thành các khu vực địa - chính trị. Các siêu cường cạnh tranh nhau để có được các nước trong khu vực địa - chính trị gắn bó, trung thành với mình. Theo Cohen, các quốc gia có quyền lực lớn ngày càng đóng vai trò quyết định trong những vấn đề toàn cầu. Năm 1991, Cohen đã cho công bố những sản phẩm nghiên cứu về địa - chính trị của mình, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng địa - chiến lược của hai lãnh địa đối với Mỹ. Đó là: Lãnh địa mậu dịch hàng hải hướng ngoại (Tây Âu, châu Phi, các nước châu Mỹ) và lãnh địa lục địa hướng nội (Liên Xô trước đây, Trung Quốc). Phần lớn các khu vực có vị trí quyền lực trọng yếu ở hàng thứ hai đều nằm trong phạm vi hai lãnh địa này. Có 3 khu vực nằm ngoài hai lãnh địa trên là: Khu vực Nam á độc lập; khu vực vành đai đứt đoạn Trung Đông và khu vực cửa ngõ Trung- Đông Âu. ở Liên Xô (trước đây), những tri thức địa- chính trị được coi là một trong những nội dung cơ bản của môn học quan hệ quốc tế. Nó đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học ngoại giao, các cơ sở đào tạo cán bộ làm công tác đối ngoại, cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Xô Viết. Những kiến thức địa- chính trị ở Liên Xô (trước đây) được nghiên cứu và giảng dạy dưới tên gọi "Bản đồ chính trị thế giới". Mục đích của môn học này là nhằm cung cấp một cách có hệ thống những tri thức về điều kiện địa lý tự nhiên, tiềm năng kinh tế, văn hoá, nhân lực, về các quá trình, sự kiện chính trị- xã hội đang diễn ra trên thế giới (ở từng khu vực và ở các nước lớn). Các quốc gia, các khu vực được phân chia chủ yếu theo tiêu chí hệ tư tưởng, thể chế chính trị- xã hội và hình thành hai nhóm nước XHCN và TBCN. Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực cùng với hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm biến đổi sâu sắc bản đồ chính trị thế giới. Sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nhóm nước, các khu vực và các châu lục diễn ra nhanh chóng. Lúc này, hợp tác và đấu tranh trên thế giới rất phức tạp; xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới phát triển mạnh. Các nước đều nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đồng thời đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Tình hình trên đặt ra nhiều yêu cầu bức xúc trong nghiên cứu địa- chính trị ở hầu hết các quốc gia trong giai đoạn hiện nay nhằm làm rõ các vấn đề cơ bản sau: Vai trò và chính sách của các nước lớn, các trung tâm sức mạnh kinh tế, chính trị trên thế giới như thế nào; vì sao có những khu vực phát triển năng động, đồng thời cũng không ít khu vực bị mất ổn định, gây ra những hậu quả nặng nề; vai trò, vị trí của các châu lục, các tổ chức kinh tế- thương mại thế giới trong đời sống quan hệ quốc tế v.v.... Như vậy, sau những bước thoái trào (trong khoảng một phần tư thế kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai), tư tưởng địa- chính trị đã dần dần được hồi phục và phát triển. Từ thập kỷ 80, địa- chính trị đã được sử dụng phổ biến hơn để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực. Hiện nay, nhiều nhà hoạch định chính sách trên thế giới thường xuyên sử dụng các tri thức khoa học địa- chính trị. Chính điều này đã làm tăng giá trị và tính phổ biến của môn khoa học này. Trong địa- chính trị học hiện đại, người ta không chỉ chú ý đến mối quan hệ của yếu tố địa lý tự nhiên với chính trị mà cần chú trọng hơn đến địa lý- nhân văn (môi trường, lao động...). Điều đó phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá các lĩnh vực của đời sống thế giới trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới. (Biên tập: Nguyễn Thị Hương Giang; nguồn: ). Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam Vũ Hồng Lâm 26/11/2005 08:28:26 AM Tài nguyên địa chính trị là một khái niệm ít được dùng nhưng bản thân tài nguyên địa chính trị lại được khai thác và sử dụng thường xuyên. Vận mệnh của một dân tộc, sự thịnh suy của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên địa chính trị của quốc gia ấy, vào khả năng khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này. Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam hiện nay Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam là một tổng thể hết sức đa dạng và phức tạp. Tổng thể ấy cấu thành từ rất nhiều yếu tố. Giá trị và ý nghĩa của từng yếu tố cũng không nhất thành bất biến. Chẳng hạn Việt Nam là một cửa ngõ của Lào và Campuchia ra biển, nhưng yếu tố này quan trọng đến đâu còn tùy theo Lào và Campuchia giàu mạnh đến đâu. Tài nguyên địa chính trị, do đó, không chỉ là địa thế như thuyết địa chính trị cổ điển vẫn hiểu, cũng không chỉ là cục diện như cách nghĩ của trường phái địa chính trị Kissinger, mà luôn là sự kết hợp của cái “thế” về địa lý tự nhiên và nhân văn, với một bối cảnh chính trị và kinh tế quốc tế nào đó. Chính cục diện chính trị-kinh tế xung quanh Việt Nam sẽ quyết định yếu tố nào là vượt trội, có tầm vóc chiến lược, trong các tài nguyên địa chính trị của Việt Nam. Xét tham vọng và tầm với của các nước lớn hiện nay thì Việt Nam đang nằm trong bàn cờ chiến lược của bốn nước lớn là Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Ấn Độ. Trước kia, Việt Nam từng đóng vai trò như là cửa ngõ chính của Trung Quốc thông xuống phía Nam. Nhưng đối với Trung Quốc hiện nay, vai trò ấy của Việt Nam đã mờ nhạt dần. Chiến lược của Trung Quốc hiện nay nhằm mở hai đường thông xuống phương Nam. Trên biển, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và tiếp tục chiếm một số bãi đá ở quần đảo Trường Sa từ năm 1988. Trên bộ, Trung Quốc kết thân với Myanmar để mượn đường thông ra Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã xây dựng căn cứ quân sự ở Myanmar và dự định sẽ xây đường ống dẫn dầu từ cảng nước sâu Sittwe bên bờ vịnh Bengal của nước này lên Vân Nam, Trung Quốc. Với việc từng bước lấn chiếm biển Đông, Trung Quốc muốn tự mình sở hữu cái “then chốt” trên con đường biển nối nước họ với Ấn Độ Dương và Đông Nam Á. Vai trò cửa ngõ ra biển của Việt Nam đối với miền Tây Nam Trung Quốc cũng suy giảm sau khi Vân Nam đã mở đường ra Ấn Độ Dương qua ngả Myanmar, và Quảng Tây tăng cường phát triển các cảng biển của mình trên vịnh Bắc Bộ như Khâm Châu, Phòng Thành và giao thông với Vân Nam. Vai trò chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc tiếp tục bị hạ thấp sau khi Trung Quốc thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với Indonesia vào đầu năm nay. Indonesia là nước lớn nhất Đông Nam Á về dân số và diện tích nhưng chủ yếu là có vùng biển nối liền từ Ấn Độ Dương sang biển Đông. Như vậy, chỉ cần kiểm soát biển Đông, bắt tay với Myanmar và Indonesia, là Trung Quốc bảo đảm lưu thông tới Ấn Độ Dương, đồng thời có hai gọng kìm kẹp lấy Đông Nam Á. Việc Trung Quốc tăng cường khống chế biển Đông và gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á, trong bối cảnh Trung Quốc đang vươn lên thành cường quốc thế giới và lãnh đạo khu vực, đã khiến các nước lớn Mỹ, Nhật và Ấn Độ đổ dồn con mắt về biển Đông, Đông Nam Á, và tìm biện pháp đối phó. Là nước muốn đóng vai trò “lãnh đạo thế giới”, Mỹ đương nhiên coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một mối nguy ở tầm đại chiến lược. Hai nước Nhật và Ấn Độ không nuôi tham vọng toàn cầu nhưng muốn làm cường quốc châu Á, tất nhiên không muốn Trung Quốc nổi lên “lãnh đạo khu vực”. Nhật chọn liên minh chiến lược với Mỹ, đứng dưới sự “lãnh đạo thế giới” của Mỹ để chống lại sự “lãnh đạo khu vực” của Trung Quốc. Ấn Độ tìm một vị trí “tự do” hơn, nhưng chủ đạo cũng là liên minh chiến lược với Mỹ. Trên địa bàn châu Á, nổi lên tranh chấp quyền lãnh đạo khu vực giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là trục Mỹ-Nhật-Ấn. Trong bối cảnh đó, biển Đông và Đông Nam Á trở thành một địa bàn chiến lược trên bàn cờ quan hệ nước lớn. Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt sống còn đối với Nhật. 90% dầu lửa mà Nhật tiêu thụ và hầu hết hàng hóa giao dịch giữa Nhật với Trung Đông và châu Âu phải qua đây. Chỉ cần Trung Quốc “thực thi chủ quyền” của họ trên biển Đông, cổ họng Nhật coi như nằm trong bàn tay Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, biển Đông cũng có tầm quan trọng sống còn. 80% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc cũng như phần lớn hàng hóa thông thương giữa Trung Quốc với châu Âu và Trung Đông đi qua đây. Biển Đông tuy không sống còn đối với Mỹ nhưng có tầm quan trọng chiến lược. Nó án ngữ con đường ngắn nhất thông từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, cũng là một “huyết mạch chủ” của kinh tế khu vực, của Trung Quốc, đối thủ chủ yếu của Mỹ, và Nhật, đồng minh chính của Mỹ, trong khu vực. Là nước chiếm giữ phân nửa các đảo đã bị chiếm trên quần đảo Trường Sa, đồng thời đóng chốt trên một số bãi ngầm ngoài khơi thềm lục địa Nam bộ, lại có bờ biển chạy dọc theo hải trình quốc tế, Việt Nam là nước có lợi thế nhất về mặt địa lý trong việc khống chế biển Đông. Trong số các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước tiếp giáp n
File đính kèm:
- Lịch sử phát triển tư tưởng địa- chính trị TG- khái quát.doc