Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Cuốn giáo trình Tâm lý học xã hội này được biên soạn dành cho sinh viên Khoa
Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng - Trường Đại học Đà Lạt.
Nội dung của cuốn giáo trình bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tâm lý học xã hội là một khoa học
- Chương 2: Các hiện tượng tâm lý xã hội
- Chương 3: Tâm lý nhóm nhỏ
Mục tiêu của giáo trình nhằm:
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơbản vềbản chất và lịch sửhình
thành tâm lý học xã hội.
- Giúp sinh viên nhận thức rõ bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội trong quá
trình hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân.
- Giúp sinh viên nắm vững những đặc điểm tâm lý và các giai đoạn phát triển của
nhóm xã hội. Từ đó có thểvận dụng vào trong quá trình thực hành công tác xã
hội với nhóm xã hội cụthể.
Trong quá trình biên soạn giáo trình này tác giả đã cốgắng rất nhiều đểhoàn
thành kịp thời cung cấp cho sinh viên. Tuy nhiên, không thểtránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót nhất định. Tác giảkính mong nhận được sự đóng góp và bổsung ý kiến
của bạn đọc.
hình thể hấp dẫn ở Mỹ có thu nhập gấp 3 lần so với những người ít hấp dẫn. Ở Mỹ, thu nhập của người hình thể hấp dẫn cao hơn những người có hình thể ít hấp dẫn và những người khác. Vì thế, vẻ đẹp của con người tự nó trở thành yếu tố để đánh giá xã hội hoặc tạo nên các liên hệ xã hội. 4.4.Các hình thức liên hệ và các mức độ liên hệ 4.4.1.Các hình thức liên hệ - Hình thức liên hệ cá nhân: phụ thuộc vào cá tính của mỗi người, phụ thuộc vào tâm trạng. Ở hình thức này cá nhân chỉ đại diện cho mình, các hành vi, cử chỉ, thái độ cá nhân tham dự vào các liên hệ và quy định các yếu tố này. - Hình thức liên hệ theo chuẩn mực (tổ chức) Cá nhân đóng vai trò đại diện cho một nhóm, tổ chức nào đó vì vậy các hành vi ứng xử của anh ta là theo các vai mà họ đóng. Trong hình thức liên hệ này các cá nhân Trang 52 phải ứng xử, thực hiện các liên hệ theo quy định của xã hội. Tự liên hệ nó phân hoá đẳng cấp xếp đặt theo thứ bậc. Nó không phụ thuộc vào đặc điểm của cá nhân, nó phụ thuộc vào thứ bậc. - Liên hệ mang tính toàn xã hội Các giá trị của cá nhân ở mỗi giai đoạn lịch sử có quy định bởi các đặc điểm chung điển hình của thời đại như : chúng ta thuộc dân tộc, thời đại, giai cấp nào, đặc trưng về giới tính, Tất cả các yếu tố này tạo khoảng cách về văn hoá khác nhau, nó mang dấu ấn trong liên hệ thể hiện trong ngôn ngữ, phong cách sống, ăn mặc v.v.. Nó tạo nên hình mẫu về các hành vi tương ứng chung được mọi người theo. Nó đưa vào trong liên hệ xã hội tạo nên đặc trưng xã hội. Tóm lại, các liên hệ đều mang đặc điểm cá nhân, nhóm, xã hội. Trong các liên hệ của con người thì cấu trúc thứ bậc có ảnh hưởng rất lớn trong kết quả giao tiếp, liên hệ. Nó phụ thuộc vào vị trí xã hội của chúng ta. Vị trí càng cao nó quy định giá trị càng lớn. Thực chất liên hệ trong xã hội đó là việc thực hiện một hệ thống quyền lực. Các liên hệ xã hội đều bị quyền lực tham gia vào, nó ảnh hưởng đến các kết quả liên hệ. Quyền lực là một ảnh hưởng của cá nhân hay nhóm xã hội khi áp đặt quan điểm của mình lên người khác, quyền lực cũng được hiểu như là một sức mạnh tinh thần, sức mạnh gây ra sự cưỡng bức khác nhau đối với người khác. Xét về mặt xã hội ai cũng có thể gây ra quyền lực. 4.4.2.Các mức độ liên hệ trong xã hội - Tiếp xúc số không (zêro): là mức thống nhất của liên hệ xã hội. Nó được thực hiện bằng việc bắt đầu, các cá nhân lần đầu gặp gỡ nhau. Các cá nhân đối diện nhưng không biết về nhau, chỉ ý thức đơn phương. Người này chú ý đến người kia và phản ứng lại, phụ thuộc vào khả năng tri giác đầu tiên. - Liên hệ xã giao hời hợt giữa các cá nhân giúp cho nhau tồn tại. Phần lớn chúng ta đều có liên hệ này: trao đổi đồng nghiệp, chuyện trò với những người sống cùng nhau. Nó không giúp chúng ta nhận thức xúc cảm, tình cảm mà chủ yếu giúp duy trì cuộc sống của con người. - Liên hệ tương hỗ: Nó thể hiện các mức độ khác nhau. Thân thiết chia sẻ cho nhau từng vấn đề có liên quan đến cuộc sống chung trên cơ sở đó trở thành mối liên hệ gắn bó lẫn nhau. Trang 53 Ở mức cao hơn, là nó ràng buộc gắn bó lẫn nhau thể hiện ở việc làm, ý nghĩ của người này trở thành trách nhiệm, tình cảm của người khác. ở các cá nhân thì đều có các liên hệ này. Ở mức độ cao hơn thì các liên hệ nó càng hẹp lại. 5.Thái độ xã hội 5.1.Một số quan điểm về thái độ Những người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như một đặc tính quan trọng của các vấn đề xã hội là hai nhà tâm lý học Mỹ: Thomas và Znaniecki. Theo hai ông thì thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị. Allport cho rằng, thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối quan hệ. Newcome cho rằng thái độ của một cá nhân đối với một khách thể nào đó là thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan. Đó là sự sẵn sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và có một thái độ nhất định về một khách thể nào đó hay một nhóm nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên trong việc quy định sự sẵn sàng phản ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta. Các nhà Tâm lý học Xô Viết (cũ) cũng nghiên cứu rất sâu về vấn đề thái độ xã hội, tiêu biểu là Uznatze (với học thuyết tâm thế xã hội) và Iađop (thuyết định vị). Thuyết tâm thế xã hội Khái niệm thái độ hay nhiều người dịch là tâm thế trong học thuyết của Uznatze được ông hiểu là “sự biến dạng hoàn chỉnh của chủ thể”, là trạng thái sẵn sàng hướng tới một hoạt động nhất định, là cơ sở của tính tích cực có sự lựa chọn của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự lựa chọn của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự hội ngộ của hai yếu tố: nhu cầu và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu. Ông dùng khái niệm tâm thế với tư cách là khái niệm trung tâm, nhưng lại là cái vô thức để giải thích hành vi của con người. Nhiều tác giả đã phê phán quan điểm này của ông vì chỉ đề cập đến quá trình hiện thực hoá các nhu cầu sinh lý đơn giản mà không tính đến các hình thức hoạt động phức tạp, cao cấp của con người. Ông không tính đến sự tác động phức tạp của các yếu tố xã hội trong việc quy định hành vi con người cũng như vai trò của quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội. Trang 54 Thuyết định vị Iadob nghiên cứu vai trò của thuyết định vị trong hành vi xã hội của nhân cách. Ông cho rằng con người có một hệ thống các tổ chức định vị khác nhau phức tạp và hành vi của con người bị điều khiển bởi các tổ chức đó. Các định vị này được tổ chức theo 4 bậc, mức độ khác nhau. + Bậc một: bao hàm các tâm thế bậc thấp (như quan niệm của Uznatze), hình thành trên cơ sở các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất. + Bậc hai: các định vị phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở và các tình huống giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ. + Bậc ba: các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích được hình thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể. + Bậc bốn: bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của nhân cách, nó điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất định đối với nhân cách. 5.2.Bản chất của thái độ xã hội Thái độ xã hội được hiểu là: - Trạng thái nhất định của tinh thần và hệ thần kinh - Thể hiện sự sẵn sàng phản ứng - Có tổ chức - Dựa trên kinh nghiệm trước đó - Có ảnh hưởng điều khiển và tác động tới hành vi Qua đây có thể thấy rõ sự phụ thuộc của thái độ xã hội và vai trò điều chỉnh hành vi rất quan trọng của nó. 5.2.1.Đối tượng của thái độ Đối tượng của thái độ có thể là tất cả những gì tồn tại trong thế giới vật chất và tinh thần mà chúng ta đang sống: người khác, một nhóm người, một tổ chức, một sự kiện, có khi là thái độ về chính bản thân mình. 5.2.2.Chức năng của thái độ - Chức năng thích nghi xã hội: Thái độ hướng chúng ta tới các đối tượng có thể giúp đạt được các mục đích kinh tế, xã hội của mình. Áp lực nhóm thường rất lớn, nó làm cho chúng ta có xu hướng thoả hiệp hoặc theo khuôn phép, a dua. Bằng cách có Trang 55 một thái độ được mọi người ủng hộ hay chấp nhận được chúng ta dễ dàng đạt được mục đích hơn, dễ được thưởng và tránh bị trừng phạt hơn. - Chức năng kiến thức: Nhờ có thái độ mà chúng ta biết cách thức phải ứng xử như thế nào trong các tình huống khác nhau một cách giản đơn, tiết kiệm thời gian và sức lực. - Chức năng biểu hiện: Thái độ xã hội là phương tiện giúp con người thoát khỏi các căng thẳng nội tâm và thể hiện mình như là một nhân cách. - Chức năng tự bảo vệ: Trong những tình huống xung đột (giữa các suy nghĩ, niềm tin, có khi là giữa thái độ và hành vi). Chúng ta thường tìm cách tự bào chữa, tìm lý do giải thích thậm chí tìm người nào đó khác chịu trách nhiệm thay mình hoặc hợp lý hoá hành vi của mình. Quá trình này dẫn đến sự thay đổi thái độ tương ứng. Thái độ mới sẽ giúp chúng ta giảm bớt sự “bất đồng” nội tâm. 5.2.3.Các thành tố của thái độ Thái độ xã hội có thể thực hiện được các chức năng trên là nhờ có một cấu trúc phức tạp. Các nhà Tâm lý học xã hội đã phân biệt và nghiên cứu 3 bộ phận cấu thành của nó như sau: - Nhận thức: là kiến thức của cá nhân về đối tượng của thái độ cho dù kiến thức đó có tương ứng hay không tương ứng, tức là có đúng hay không đúng. - Tình cảm: là các cảm xúc, tình cảm của cá nhân đối với đối tượng của thái độ xã hội. - Hành vi: Đó là hành động hay ý định hành động mà bạn sẽ ứng xử với đối tượng. 5.3.Sự hình thành thái độ Thái độ được hình thành trong quá trình phát triển của cá nhân. Những yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển thái độ là nhu cầu của cá nhân, thông tin, giao tiếp trong nhóm và nhân cách của cá nhân. 5.3.1.Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu Con người hình thành và phát triển các thái độ nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Người ta sẽ hình thành các thái độ tích cực đối với các khách thể có lợi, tiêu cực đối với các khách thể có hại cho họ trên con đường đạt tới mục đích nào đó để thoả mãn các nhu cầu nhất định của họ. Thực tế cho thấy, thái độ có thể phục vụ cho nhiều Trang 56 mục đích khác nhau. Và như vậy, các nhu cầu khác nhau có thể hình thành nên một thái độ. 5.3.2.Thái độ được hình thành bởi các thông tin Nếu chúng ta không biết thông tin, hoặc biết rất ít về một sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta không thể hiện thái độ đối với nó. Với mọi người nguồn thông tin chính thức qua các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành thái độ, dư luận cũng như thay đổi hành vi của các nhóm dân cư. 5.3.3.Giao tiếp nhóm là một trong những yếu tố quyết định trong quá trình hình thành thái độ. Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau. Thái độ của anh ta thường phản ánh niềm tin, giá trị, chuẩn mực của nhóm mà anh ta là thành viên. Sự khác nhau giữa thái độ của các nhóm khác nhau m
File đính kèm:
- GT tâm lý học xã hội- ĐH Đà Lạt.pdf