Giáo trình Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường Tiểu học và Trung học Cơ sở - Nguyễn Vinh Hiển

LỜI NÓI ĐẦUU. 4

CHƯƠNG 1 . 5

GIỚI THIỆU VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƯƠNG

PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT". 5

1.1. Khái quát về phương pháp “Bàn tay nặn bột”. 5

1.2. Sự ra đời và phát triển của phương pháp BTNB ở Pháp. 5

1.3. Giáo sư Georges Charpak - Người khai sinh phương pháp BTNB . 8

1.4. Phương pháp BTNB trên thế giới. 12

1.5. Phương pháp BTNB tại Việt Nam. 13

CHƯƠNG 2 . 18

LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" . 18

2.1. Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB. 18

2.2. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB . 40

2.3. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB. 44

2.4. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác. 52

CHƯƠNG 3 . 58

CÁC KỸ THUẬT DẠY HỌC VÀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG CHO HỌC SINH

TRONG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" . 58

3.1. Tổ chức lớp học. 58

3.2. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh. 60

3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB . 67

3.4. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên . 69

3.5. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp BTNB . 72

pdf130 trang | Chia sẻ: lethuong715 | Lượt xem: 864 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường Tiểu học và Trung học Cơ sở - Nguyễn Vinh Hiển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. 
3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh 
 Dạy học theo phương pháp BTNB chú trọng nhiều đến hoạt 
động thảo luận của học sinh vì như đã nói ở trên hoạt động tìm tòi - 
 61
nghiên cứu để xây dựng kiến thức mới của học sinh là kết quả của 
hoạt động hợp tác. Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết 
nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. 
Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của 
mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng 
biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối 
chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược 
quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của 
lớp học. 
 Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng 
phương pháp BTNB, có thể là thảo luận để bộc lộ biểu tượng ban đầu 
của học sinh, có thể là thảo luận để đề xuất câu hỏi, đề xuất thí nghiệm 
hay cũng có thể để rút ra kết luận sau một thí nghiệm hay rút ra kết 
luận kiến thức cho bài học. 
 Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp 
BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm 
lớn (toàn bộ lớp học). 
 Thảo luận nhóm nhỏ tạo điều kiện cho các học sinh đều có cơ 
hội trình bày ý tưởng của mình. Tuy nhiên, thảo luận nhóm nhỏ lại 
không yêu cầu cao đối với học sinh trong việc trình bày. Trong mức 
độ thảo luận này, các học sinh có thể tự do trình bày ý kiến với các 
thành viên của nhóm. Học sinh mạnh dạn hơn vì ý kiến được trình bày 
trong một cộng đồng nhỏ. 
 Thảo luận theo nhóm lớn (toàn bộ lớp học) có thể được tổ chức 
sau khi thực hiện thảo luận theo nhóm nhỏ, các nhóm cử đại diện 
nhóm trình bày hoặc được tổ chức sau khi cho học sinh làm việc cá 
nhân (đối với những câu hỏi ngắn hoặc những công việc không cần 
thiết phải thực hiện hoạt động nhóm nhỏ trước đó). 
 Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số 
phương pháp dạy học và thảo luận trong phương pháp BTNB. Thảo 
luận truyền thống được thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa 
chọn một học sinh trả lời, sau đó nhận xét đúng hay sai trước khi 
chuyển sang một câu hỏi mới hoặc chuyển sang một học sinh khác 
 62 
cũng với câu hỏi đó. Thảo luận trong phương pháp BTNB hoàn toàn 
khác biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với 
nhau, có nghĩa là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh 
trước, hoặc đặt câu hỏi đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan 
điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi ý kiến của nhóm mình. Cần thiết phải 
dành thời gian để rèn luyện các kỹ năng này của học sinh vì thảo luận 
theo hình thức này giúp rèn luyện ngôn ngữ nói cho học sinh rất hiệu 
quả. 
 Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp 
học, ngoài việc tổ chức dạy học thoải mái, không gò bó, tạo một 
không khí làm việc tốt cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến một số 
gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành 
công: 
 - Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động 
nhóm cho học sinh. 
 - Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ việc 
thành lập nhóm làm việc (nhóm nhiều người hay nhóm hai người), nội 
dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo 
viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện 
đúng yêu cầu. Không nên đưa ra các lệnh chung chung như "Bây giờ 
các em thảo luận theo nhóm đi" 
 - Khi học sinh thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất 
nhiên không có nghĩa là ồn ào và lộn xộn. Nhắc nhở học sinh trao 
đổi, thảo luận vừa nghe trong nhóm (đối với thảo luận nhóm nhỏ). 
 - Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với 
tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên 
nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn 
có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian 
của tiết học. 
 - Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh 
suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý 
tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh 
 63
xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng 
mới. 
 - Nếu quan sát thấy một học sinh nào đó còn rụt rè chưa muốn 
nêu ý kiến, mặc dù giáo viên cảm nhận được em này đang muốn nói, 
giáo viên cần khuyến khích thậm chí chỉ định để học sinh này mạnh 
dạn phát biểu ý kiến của mình. Giáo viên cũng nên phân tích cho học 
sinh hiểu là cần phải nêu ý kiến cá nhân của mình để người khác được 
biết, thông qua đó mọi người có thể so sánh với ý kiến của mình để 
cùng tranh luận xây dựng kiến thức. Một số gợi ý giúp cho giáo viên 
phát hiện học sinh biết hoặc có ý kiến nhưng rụt rè không muốn phát 
biểu là: học sinh đang nghe người khác trình bày tỏ vẻ không đồng 
tình rồi im lặng, hoặc quay sang người bên cạnh bàn luận về ý kiến 
của người đang nói, hoặc đưa tay xin phát biểu mà không dám đưa cao 
để giáo viên thấy (những nhận biết này tùy theo kinh nghiệm của 
giáo viên trong quá trình dạy học). Muốn làm được điều này bắt buộc 
giáo viên phải quan sát tinh tế, bao quát lớp. 
 - Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của 
nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và 
chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây 
mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát 
biểu bổ sung. Để tránh mất thời gian khi các nhóm có ý kiến bổ sung 
lặp lại ý kiến nhóm trước, giáo viên yêu cầu các nhóm tiếp theo chỉ bổ 
sung ý kiến khác biệt hoặc bổ sung thêm những ý còn thiếu, làm rõ 
những ý chưa rõ ràng. Công việc này được thực hiện tương tự đối với 
thảo luận chung cả lớp với từng ý kiến cá nhân mà không phải ý kiến 
chung của cả nhóm. 
 - Khi học sinh trình bày ý kiến chưa đúng, giáo viên không nên 
chê bai hoặc nhận xét tiêu cực để tránh sự rụt rè, xấu hổ của học sinh. 
Những nhận xét tiêu cực không đúng thời điểm và nhất là khi học sinh 
trình bày trước tập thể lớp sẽ phản tác dụng giáo dục, gây bất lợi cho 
quá trình dạy học, vì sau đó học sinh ngại không chịu phát biểu hoặc 
phát biểu miễn cưỡng khi được yêu cầu, gây không khí nặng nề cho 
lớp học. Như đã nói ở trên, ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ 
thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó 
 64 
giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí 
nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay 
nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí 
nghiệm nghiên cứu. Ví dụ: Khi úp cốc thuỷ tinh lên ngọn nến đang 
cháy, có học sinh cho rằng nến vẫn tiếp tục cháy bình thường, có học 
sinh nói ngọn nến sẽ tắt ngay lập tức, ý kiến khác lại cho rằng ngọn 
nến tiếp tục cháy một thời gian ngắn rồi tắt. Lúc đó giáo viên không 
nên nhận xét ngay học sinh nào có ý kiến đúng mà yêu cầu các em 
làm thí nghiệm. Khi thực hiện thí nghiệm, chính học sinh sẽ rút ra kết 
luận và đối chiếu với ý kiến ban đầu của mình để nhận thấy mình 
đúng hay sai. 
 - Khi một học sinh có ý kiến ngây ngô, gây cười cho cả lớp 
hoặc một bộ phận học sinh, giáo viên nên chấn chỉnh mà phân tích 
cho học sinh thấy rằng cần phải tôn trọng ý kiến của người khác. Việc 
chấn chỉnh này nên thựa hiện một cách nhẹ nhàng ví dụ như: "Các em 
không nên cười ý kiến của bạn, cần tôn trọng lắng nghe ý kiến của 
người khác. Mà hiện tại chúng ta cũng đã biết các ý kiến được trình 
bày là đúng hay sai đâu? Vậy em A có ý kiến gì khác về vấn đề 
này?" 
 - Khi trả lời hoặc nêu ý kiến cá nhân, đa số học sinh có thói 
quen nhìn vào giáo viên và hướng phần trả lời của mình vào giáo viên. 
Giáo viên chú ý nên nhắc nhở nhẹ nhàng để học sinh biết là mình 
đang thảo luận với các bạn trong lớp chứ không phải đang thảo luận 
với giáo viên. Một số câu nhắc nhở mà giáo viên có thể sử dụng như: 
"B à, em đang thảo luận với bạn A chứ không phải với Cô (Thầy)"; 
"Bạn C đang muốn đặt câu hỏi cho em đấy!"; "D, em nghĩ gì về ý kiến 
của bạn E"; "H, em có bổ sung gì thêm cho ý kiến của bạn K 
không?" 
 - Như đã nói ở trên, vai trò của giáo viên trong phương pháp 
BTNB, cũng giống như đối với các phương pháp dạy học tích cực 
khác, đó là hướng dẫn. Người giáo viên không phải là trung tâm của 
quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo viên nên 
nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu trả lời chuẩn xác cho học 
sinh. Điều quan trọng ở đây là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo 
 65
luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học 
sinh thảo luận tích cực. 
 - Khi học sinh bế tắc trong thảo luận, giáo viên có thể gợi ý 
thêm bằng các câu hỏi gợi ý hoặc những câu khẳng định mang tính 
chất dẫn dắt để học sinh chú ý đến những dữ liệu, thông tin, đặc điểm 
liên quan đến việc tìm ra câu trả lời. Ví dụ: "Chúng ta hãy nhìn vào 
những số liệu này"; "Các em để ý ở"; "Các em hãy thử" 
 - Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần 
hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. 
 - Trong quá trình thảo luận mở theo tinh thần phương pháp 
BTNB, học sinh có thể sẽ đặt ra các câu hỏi khó, vượt ngoài tầm kiến 
thức trong chương trình hoặc những câu hỏi mà với những thí nghiệm 
thực hiện không thể tìm ra câu trả lời hay chứng minh; thậm chí đôi 
khi giáo viên gặp những câu hỏi khó vượt khả năng kiến thức của 
mình để trả lời cho học sinh. Cách giải quyết khi điều khiển thảo luận 
là giáo viên nên ghi lại những câu hỏi trên bảng, có thể sắp xếp theo 
một tiêu chí nào đó tùy theo mục đích dạy học hoặc phân thành hai 
nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm 
tòi - nghiên cứu của học sinh và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu 
trả lời qua các thí nghiệm, học sinh sẽ tìm được câu trả lời từ giáo 
viên, từ các nhà khoa học, từ sách báo, tài liệu hoặc từ Internet. 
 Đối với những câu hỏi v

File đính kèm:

  • pdfPP bàn tay nặn bột- ĐH Thái Nguyên.pdf