Đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng dạy môn Tự nhiên xã hội lớp 3
Trong số báo này chúng tôi giới thiệu tiếp một sáng kiến kinh nghiệm xếp loại B cấp thành phố năm học 2010-2011 trong lĩnh tự nhiên xã hội lớp 3 của cô giáo Bùi Nguyệt Thu – Giáo viên trường tiểu học Đền Lừ Quận Hoàng Mai với đề tài: “ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy môn tự nhiên Xã Hội lớp 3” Thông qua đề tài này chúng tôi huy vọng giáo viên tiểu học vận dụng CNTT vào giảng dạy môn tự nhiện Xã Hội một cách có hiệu quả. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt sáng kiến:
Sang thế kỉ 21, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin (CNTT) có tác động to lớn tới hệ thống Giáo dục - Đào tạo của mỗi quốc gia. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã nhấn mạnh: "Các ứng dụng CNTT sẽ trở thành thiết bị dạy học chủ đạo trong giảng dạy”. Một trong những ứng dụng CNTT quan trọng đó là phần mềm dạy học.
Trong thời đại xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, việc dạy học không chỉ hạn chế trong các giờ học tại nhà trường mà có thể học tập dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên (GV) hoặc tự học tập tại nhà qua hệ thống Internet.
Như vậy, việc sử dụng PMDH làm phương tiện dạy học các môn học, giúp cho việc học tập của HS như là một công cụ hỗ trợ cho việc dạy và học nhằm góp phần rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giao tiếp, độc lập giải quyết các vấn đề, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin nhằm góp phần củng cố tư tưởng học suốt đời cho tất cả mọi người. Phát triển rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong nhiều môn học, mọi trường học, mọi cấp học và mọi ngành học thông qua các loại PM khác nhau ( PMDH, tự học, PM kiểm tra đánh giá.) dẫn đến việc xây dựng nội dung và phương pháp đào tạo thích hợp, phát triển việc kiểm tra đánh giá trong một môi trường giàu thông tin.
Là một giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Tiểu học, với nhiều năm gắn bó với môi trường sư phạm. Tác giả đã không ngừng học tập, nghiên cứu để theo kịp thời đại CNTT và nâng cao chất lượng dạy học. Việc sử dụng các phần mềm để thiết kế bài giảng đã giúp tác giả có những kết quả khả quan trong giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, đặc biệt là việc soạn giáo án điện tử cho những tiết dạy TNXH ở lớp 3. Đó chính là lý do tác giả chọn và nghiên cứu đề tài “Ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy môn TNXH lớp 3”.
gay tức thời, điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự học. Những hình ảnh đẹp, rõ ràng, nhiều màu sắc sinh động, kèm theo các đoạn văn bản, giọng nói nhạc đệm... tác động đồng thời hoặc kế tiếp nhau lên các giác quan giúp cho HS tự thao tác tay làm, mắt thấy, tai nghe, trí óc suy nghĩ... trong khi học và luyện tập, nhờ đó dễ dàng hiểu rõ, nắm vững kiến thức . PM cho phép giáo viên lựa chọn các tài liệu trực quan cần cho từng phần của bài học và sử dụng chúng rất thuận tiện trong giảng dạy. b) đối tượng vận dụng. Giáo viên: Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Đội ngũ giáo viên cần được chuẩn hoá, bản thân người giáo viên phải năng động, học hỏi, tích cực đổi mới - Học sinh: học sinh cần chăm đều, chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm trong giờ học. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 1. Đặc điểm chung của trường, lớp. Giáo viên: biết sử dụng máy vi tính và có thể thiết kế, chỉnh sửa giáo án trên Powerpoint và Violet. GV tích cực đổi mới, không ngừng học tập phương pháp hiệu quả, tự rèn luyện nâng cao trình độ tin học, sử dụng các trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt GV luôn chuẩn bị kĩ bài giảng trước khi đến lớp. Tuy nhiên cơ sở vật chất của nhà trường còn chưa được hoàn thiện: Trường có máy projecter, máy tính nhưng chưa có phòng chức năng riêng nên việc sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế. Khi giáo viên muốn sử dụng thì phải tháo và lắp đặt tại lớp học của mình.. Việc thiết kế 1 bài giáo án trên Powerpoint hay Violet cũng mất rất nhiều thời gian (ít nhất là 2 giờ) nên việc đưa giáo án điện tử vào giảng dạy các tiết học nói chung cũng như tiết học TNXH nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập. Học sinh: HS còn học tập ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên các em đều ham thích một giờ học với nhiều âm thanh, hình ảnh minh hoạ, được làm chủ những kiến thức của bài học. 2. Những ưu điểm và bất cập khi ứng dụng CNTT vào giảng dạy. a) Những ưu điểm khi ứng dụng CNTT: - Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT tại trung tâm Tin học nên có sẵn trong mình những hiểu biết về Powerpoint và Violet. Đồng thời tôi cũng là một giáo viên Tiểu học có nhiều năm công tác và kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc các bước lên lớp và kĩ năng, phương pháp sư phạm cần thiết. - Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn lớp học về CNTT do phòng Giáo dục và Đào tạo quận Hoàng Mai tổ chức. Đồng thời tôi cũng không ngừng học tập, tìm hiểu về những phần mềm đồ họa khác để lấy kiến thức cũng như sưu tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc thiết kế. - Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp. - Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục, gắn bó với đồng nghiệp, thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và nhiệt huyết để nâng cao chất lượng giảng dạy trong từng tiết học nói chung và giời học môn TNXH nói riêng. b) Những bất cập khi thiết kế: - Không phải là người học chuyên Tin nên trong khi áp dụng những bài giảng điện tử vào giảng dạy tôi không thể tránh được những điều bất cập, có ý tưởng nhưng không thiết kế được theo ý mình. - Nắm được tình cảm, thái độ của học sinh trong việc học tập môn TNXH cũng hết sức khó khăn. Tôi phải tiếp xúc, trao đổi với học sinh sau nhiều thời gian mới thấy được. - Việc tìm kiếm những tư liệu phục vụ cho việc soạn giáo án điện tử cũng mất nhiều thời gian, tôi phải tìm tòi trên sách báo, mạng Internet… CHƯƠNG 3:BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẦN ĐỀ - Ứng dụng CNTT vào giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp dạy học môn TNXH, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong các giờ giảng dạy ở trên lớp cũng như chuẩn bị bài ở nhà. Với những hình ảnh, âm thanh sinh động, HS là chủ thể của giờ học.Các hình thức hoạt động đơn giản như bấm phím, di chuyển và kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú khi thấy yêu cầu của mình đề ra được thực hiện liền ngay tức thời, điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự học Tôi ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH ở một số mảng như sau: 1. Ứng dụng minh họa. - Theo kinh nghiệm học tập của các nước ở Châu Âu trẻ chỉ phải học hai môn học: Tiếng Mẹ đẻ và Toán. Nhưng thời lượng ngoại khoá là 60%. Tại các buổi ngoại khoá, trẻ học cách tìm hiểu về cuộc sống các loài hoa, các con vật. Vẽ hình và mô tả sự hiểu biết đó. - Hiểu biết về cuộc sống, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, các vấn đề xã hội. Các nghề nghiệp có trong xã hội. Cách thức sản xuất.v..v.. - Bé học làm các vật dụng thủ công khó như đóng bàn ghế, mối hàn, làm bánh… - Bé tập làm quen với vịêc lao động nhóm, lao động cá nhân, theo tập thể. - Các bé được tham gia ngoại khoá vài ngày hoặc vài tuần tại nước ngoài. Đi cá nhân hoặc theo tập thể lớp. Ở Thái Lan: chương trình phân theo 3 chủ đề: Kinh nghiệm sống: Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử. Phát triển tính cách: Đạo đức, Âm nhạc, Thể dục. Định hướng lao động: Nữ công, Kỹ thuật nông nghiệp, Mỹ thuật. Tại Malayxia, các môn học cuộc sống được phân theo 2 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: hiểu biết môi trường TN – XH gần gũi, bao quanh thông qua môn tiếng Malai. Giai đoạn 2: Tích hợp các kiến thức môn Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử, Đạo đức, Sức khoẻ thành môn Con người và Môi trường. Khác hẳn với điều kiện học tập ở nước ta, thời gian chủ yếu của trẻ là học tại nhà trường và thông qua sách vở. Môn Toán, Tiếng Việt được chú trọng hơn nên những hiểu biết về thực tế của học sinh còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ để học tập bộ môn TNXH được tốt và cho phù hợp với điều kiện học tập ở nước ta, ứng dụng CNTT vào giảng dạy là vô cùng quan trọng. Hình ảnh và âm thanh minh họa giúp trẻ gần với thực tế và thêm những kinh nghiệm trong vốn sống. Để làm được việc này, trong quá trình soạn giáo án điện tử giáo viên ngoài việc nghiên cứu sách giáo khoa, sách tham khảo để đảm bảo nội dung và kiến thức trong bài dạy, GV cần tìm hiểu những phần mềm liên quan đến việc thiết kế. Sách giáo khoa TNXH 3 có 3 chủ đề gồm 70 bài ứng với 70 tiết của 35 tuần thực học. Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập, được phân phối như sau: + Con người và sức khỏe: HS được nhận biết một số cơ quan trên sơ đồ, cách giữ vệ sinh và phòng bệnh cho những cơ quan này. + Xã hội: Thể hiện mối quan hệ gia đình, nhà trường, vốn hiểu biết và ý thức về tỉnh, thành phố nơi đang sống. + Tự nhiên: Nói về Thực vật và động vật – Mặt trời và trái đất. Trong năm học này, tôi đã không ngừng học tập và phấn đấu để nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã mạnh dạn tham gia một tiết dạy môn TNXH cấp thành phố. Nội dung bài dạy được thiết kế trên nền Powerpoint sinh động và đẹp mắt, hình ảnh minh họa phù hợp, phong phú kết hợp với những âm thanh, bài hát. Giờ học của tôi đã thực sự trở lên hiệu quả và được xếp loại xuất sắc cấp Thành phố năm học 2010-2011. Tôi cũng xin đưa vào SKKN này để minh trứng cho việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn TNXH lớp 3 của tôi. 2. Ứng dụng vào phần bài tập. Theo M.A.Đanilov “Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự, nếu học sinh có thể vận dụng thành thạo chúng hoàn thành vào những bài tập lí thuyết hay thực hành”. Bài tập nhằm ôn tập những kiến thức đã học, củng cố kiến thức cơ bản của bài giảng. Một đơn vị kiến thức mới, học sinh chỉ có thể ghi nhớ khi được luyện tập nhiều lần. Một điểm mạnh đáng kể của Violet so với các phần mềm thiết kế bài giảng khác là khả năng tạo ra các bài tập rất phong phú, sinh động và đặc biệt là rất đơn giản. Ví dụ trong Powerpoint ta phải mất cả buổi mới có thể tạo ra 1 bài tập trắc nghiệm hoặc bài tập ô chữ thì đối với Violet chỉ cần vài phút là đã làm xong. Những bài tập này cũng đặc biệt rất thích hợp trong việc củng cố kiến thức trong môn học TNXH. Chính vì vậy tôi thường sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần bài tập cho bài giảng TNXH của mình. Một số ví dụ Bài tập trắc nghiệm được tạo bằng Violet a) dạng nhiều lựa chọn trong đó có một đáp án đúng: HS sẽ có cơ hội giao tiếp trực tiếp với máy tính để chọn ra đáp án đúng và kiểm tra kết quả. Thay vì việc GV và HS nhận xét thì các em sẽ nhìn thấy kết quả bài làm của mình ngay trên máy. Máy tính sẽ có những lời động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở. Dạng 2 Bài tập kéo thả chữ: Với giao diện này sẽ có trường hợp HS trả lời đúng ngay. Nhưng nếu trường hợp HS trả lời sai thì HS khác có thể lên bảng thao tác lai để chọn ra đáp án đúng. Như vậy sẽ thu hút HS hướng lên màn hình theo dõi kết quả bài làm của bạn và cung không quên suy nghĩ đáp án cho riêng mình vì các bạn vẫn còn lượt trả lời. C). Ứng dụng vào phần trò chơi. Bài tập dạng ô chữ cũng được thiết kế trên nền của Violet rất nhanh chóng và tiện lợi. Tuy nhiên về giao diện thì Powerpoint lại chiếm ưu thế hơn ở tính thẩm mỹ và độ tương tác. Do đó tôi thường thiết kế bài tập ô chữ trên nền Powerpoint. Đây là một dạng bài tập thú vị. Nó không những tổng hợp được những kiến thức trong giờ học mà còn gây hứng thú cho HS rất nhiều. Tôi không ngần ngại trong việc biến đổi dạng bài tập này sang hình thức của một trò chơi ô chữ để giờ học thêm sôi nổi, hào hứng. Trò chơi “Đoán tên môn học” được thể hiện dưới dạng các ô chữ HS có thể chọn ngẫu nhiên 1 trong 9 câu hỏi Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi là 30 giây. HS đưa ra đáp án. Kích chọn vào phần ô chữ đáp án sẽ xuất hiện và đồng thời ngôi sao lựa chọn câu hỏi cũng biến mất Các chữ cái của từ khóa được xắp xếp không theo trật tự. Khi đã trả lời hết từ hàng ngang hoặc bạn nào tìm ra từ khóa trước thì đưa ra đáp án và phần đáp án sẽ hiển thị ở phía dưới Đây là một trong những là một trò chơi lý thú mà còn đưa ra được cho các em những kiến thức tổng hợp mà tôi thường xuyên áp dụng trong giờ học TNXH CHƯƠNG 4: THỰC NGHIỆM KHOA HỌC VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 1. Thực nghiệm khoa học: - Một đề tài sẽ chỉ là lí
File đính kèm:
- SANG KIEN KINH NGHIEM TNXH LOP 3.doc