Đề tài Nghiên cứu vận dụng trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh Trường THCS Thuỷ Liễu – Gò Quao – Kiên Giang
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm tới việc đổi mới và phát triển giáo dục Nghị quyết Đại hội IX khẳng định “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp học và dạy hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; Thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Ngoài việc giáo dục các mặt khác như : Trí tuệ, Thẩm mỹ, Đạo đức, còn có cả công tác giáo dục trẻ em. Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng góp phần hình thành con người mới phát triển toàn diện nói chung và nhà trường nói riêng theo luật giáo dục (1998).
Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác thể dục thể thao, đặt biệt là lĩnh vực giáo dục thể chất cho thể hệ trẻ.
Đảng và nhà nước ta luôn chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước, coi công tác giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cũng như trong chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT. Về mặt này trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng VII đã nêu rõ “Công tác TDTT cần coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường học”.
một nội dung quan trọng để thực hiện chức năng chuẩn bị thế hệ trẻ làm quen với đời sống cho mỗi xã hội. Do vậy, không thể đối lập hoặc tách rời giữa việc học và chơi của trẻ. Xuất phát từ thực trạng trên nghiên cứu ứng dụng các bài tập trò chơi vận động cho trẻ em học sinh Tiểu học là một cộng việc hết sức cần thiết. Mục đích của đề tài này là khai thác hiệu quả nội dung tổ chức các trò chơi vận động, phát triển thể chất cho các em, đa dạng hoá các loại hình TDTT trong nhà trường. 2.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học (12 đến 15 tuổi) và đặt điểm các phương pháp giảng dạy thể dục, trò chơi vận động. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi từ 12 đến 15 Các em học sinh THCS thường có độ tuổi từ 12 đến 15, việc lựa chọn bài tập thể dục và trò chơi có vận động hợp lý với lứa tuổi này là rất quan trọng. Do vậy đòi hỏi người giáo viên cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý và tâm lý lứa tuổi này. Hệ thần kinh: Quá trình thần kinh đã có sức mạnh và sự ổn định, các phản xạ có điều kiện tương đối bền vững, ức chế bên trong cơ thể hiện rõ rệt, hệ thống tín hiệu phát triển mạnh. Các em có khả năng mô tả và tiếp thu bằng ngôn ngữ, hấp thụ các cảm giác vận động. Những ảnh hưởng điều chỉnh các vỏ não đối với các vùng dưới não còn yếu, vì vậy sự tập trung chú ý chưa bền. Quá trình trao đổi chất và năng lượng: Quá trình đồng hoá chiếm ưu thế so với quá trình dị hoá. Sự tiêu hao năng lượng nhiều hơn so với người lớn trong cùng một hoạt động. Hệ tuần hoàn: Khối lượng máu tỷ lệ với trọng lượng cơ thể cao hơn so với người lớn. Kích thích tuyệt đối và tương đối của tim tăng dần theo lứa tuổi. Nhịp tim của các em không ổn định, tim mạch của cơ thể trẻ tỷ lệ với sự tăng công suất hoạt động, sự phụ hồi tim mạch sau hoạt động thể lực phụ thuộc vào độ lớn của lượng vận động. Sau hoạt động lượng vận động nhỏ cơ thể trẻ phụ hồi nhanh hơn người lớn. Nhưng sau lượng vận động lớn cơ thể trẻ phục hồi chậm hơn người lớn. Huyết áp: Cũng tăng dần theo lứa tuổi, trẻ em sự tăng huyết áp yếu hơn so với người lớn. Hệ hô hấp: Có đặc điểm thở nhanh và không ổn định, thở rộng và có tỷ lệ thở ra hít vào bằng nhau. Tầng số hô hấp vào khoảng 18 – 27 lần/1phút. Dung tích của trẻ so với người lớn là lớn hơn. Tuy nhiên nếu tính dung tích sống trên 1kg da của trẻ thấp hơn so với người lớn. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi từ 12 đến 15 Tri giác: Ở lứa tuổi 12 – 15 thường các em tri giác còn vội vàng, thiếu chính xác. Vì vậy, các em thực hiện động tác dễ sai sót. Giáo viên cần sử dụng phương tiện trực quan, hình vẽ, biểu bảng với nội dung đơn giản, dễ hiểu cần nhấn mạnh những yếu tố cần thiết. Do tri giác không gian chưa phát triển nên khi giảng dạy động tác, giáo viên cần xoay lưng cùng chiều với các em để thực hiện động tác hoặc sử dụng theo kiểu sôi gương thì phải giải thích cho các em biết như :(thầy bước chân phải thì các em nhìn theo và bước chân trái ). Tri giác về nhịp độ có đặc điểm riêng khi làm sai không tự nhận thấy mà chỉ nhờ nhịp điệu mới hoàn thành. Khả năng tập trung chú ý: Ở lứa tuổi này chú ý không chủ định chiếm ưu thế sức tập trung, chú ý thấp. Tuy nhiên cũng có nhiều em biết tập trung chú ý. Sự di chuyển chú ý chưa linh hoạt, khối lượng chú ý chưa lớn. Sự phân phối chú ý chưa đúng mức. Do vậy sự chú ý của lứa tuổi này cần quan tâm. Trí nhớ: Đặc điểm trí nhớ ở lứa tuổi này là trí nhớ trực quan hình tượng, các em dễ dàng nhớ sự việc với những hình ảnh cụ thể. Một đặc điểm nữa của trí nhớ trong lứa tuổi này là: tính không chủ định chiếm ưu thế, trí nhớ vận động chưa hoàn thiện, chưa chính xác, tiếp thu động tác máy móc không có phê phán nên các em hay lẫn lộn với những động tác có cử động giống nhau, do ức chế phân biệt của các em chưa phát triển, cần giải thích kỹ sự khác nhau giữa các động tác. Tư duy: Do có sự chuyển biến, từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng, có thể dạy các em phân tích quá trình thực hiện động tác của bản thân và người khác. Tưởng tượng: Có những tiến bộ rõ rệt, quán trình tưởng tượng thường phản ánh chủ quan được phát triển chủ yếu trong quá trình tập luyện và vui chơi. Cảm xúc: Cảm xúc phụ thuộc nhiều vào đặc điểm của hệ thần kinh. Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế nên dễ mệt mỏi. Do vậy, ảnh hưởng đến quá trình cảm xúc của các em. Cảm xúc luôn xuất hiện trong vui chơi và tập luyện, thoải mái khi làm được bài, nghi ngờ khi gặp khó khăn. Cảm xúc được biểu lộ ra bên ngoài, chưa biết che dấu, vui buồn nhất thời. Tâm trang đó thường gặp và chuyển hoá qua lại rất nhanh. Vì vậy giáo viên cần thận trọng nhận xét và phê bình về mặt tâm lý, cần gây cảm xúc tình cảm cho các em khi có nhiệm vụ vận động, cần có những tác dụng điều chỉnh cảm xúc, bài tập chuyên môn Ý thức: Ý thức của các em chưa phát triển đúng mức, do đó khó đặt ra cho mình một mục đích hành động, sự sẵn sàng khắc phục khó khăn, tính kỉ luật, sự quyết tâm còn yếu. Tính kiên trì chưa phát triển rõ rệt, các em chỉ dựa vào mục đích trước mắt còn mục đích lâu dài chưa xác định được. Các em rất dũng cảm, biết khó cần thực hiện được, do chưa nhận thức được những khó khăn, nên dễ bị chấn thương. Do vậy, khi giảng dạy giáo viên cần giải thích kỹ yêu cầu của từng động tác và và nêu ra yêu cầu sao cho phù hợp với khả năng của các em. Đặc điểm giảng dạy thể dục và trò chơi vận động cho các em học sinh THCS (12 – 15) Từ những đặc điểm sinh lý trên đây đối với các em học sinh THCS khi giảng thể dục cần chú ý những điểm sau: Ở các em rất nhanh xuất hiện những mối liên hệ của các phản xạ có điều kiện đối với các hoạt động thực tế thường gặp trong cuộc sống. Vì vậy đối với các em bài tập càng cụ thể nhiệm vụ hoạt động càng hẹp, bài tập càng dễ hiểu thì việc hoàn thành càng nhanh, phải chú ý đến đặc điểm phát triển của cơ thể, cơ quan vận động, cần tránh những bài tập tĩnh, kéo dài và các bài tập chấn động cơ thể mạnh. Cơ của các em giàu tính đàn hồi nhiều nước ít chất Anbumin và muối khoáng hơn người lớn, mà lực của các em lại còn yếu. Vì vậy các bài tập đòi hỏi sự hoạt động quá căng thẳng là không phù hợp với các em. Các bài tập dẻo cần phải hết sức chú ý đến đặc điểm phát triển cơ thể của các em, bởi vì các bài tập nếu làm quá mạnh, sẽ làm giản dây chằng, dẫn tới làm tư thế bị sai lệch. Đối với các em ở lứa tuổi này cần phải phát triển một cách toàn diện và cân đối các tố chất thể lực, cần chú ý phát triển tố chất nhanh, linh hoạt mềm dẻo. Vì vậy trong 12 – 13 tuổi cần cho các em nắm thật chắc những kĩ xảo vận động cơ bản. Những kĩ năng, kĩ xảo vận động đã không chỉ có ý nghĩa thực dụng, mà còn có ý nghĩa chung. Đối với các em ở lứa tuổi này cần phải phát triển một cách tuyệt đối các tố chất cần đặc biệt chú ý phát triển tố chất tốc độ, tính linh hoạt và mềm dẻo. Đối với các em 12 – 13 tuổi cần giải thích cụ thể và dễ hiểu, nhưng chủ yếu vẫn là làm mẫu để các em tập theo, ví dụ: bật xa tại chỗ thì cần lưu ý cho các em về tư thế chân trước khi dậm nhảy, tư thế tay khi dậm nhảy và rơi xuống nệm hoặc cát tiếp xúc bằng 2 chân và phối hợp khuỵ gối và tay để giữ thăng bằng. Điều cơ bản trong giảng dạy đối với các em ở lứa tuổi 12 – 14 là phải nghiêm chỉnh thực hiện các bài tập theo thứ tự (Từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, dần dần nâng cao độ khó). Khi giảng dạy bài tập khó phải dạy theo từng phần sau đó mới tiến hành giảng dạy hoàn chỉnh. Có như vậy, các em mới tiếp thu một cách hiệu quả những kĩ năng, kĩ xảo vận động trong chương trình học tập. Bên cạnh đó khi giảng dạy thể dục và trò chơi vận động cần tính tới các đặc điểm của hệ thần kinh trung ương, hệ tuần hoàn và hô hấp. Đánh giá thực trạng thể lực của học sinh trường THCS Thuỷ Liễu. Công tác giáo dục thể chất ở trường THCS Mong ThoÏ A đã có những bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên qua thực tế tìm hiểu kế hoạch giảng dạy và học tập của trường, chúng tôi thấy rằng việc giảng dạy thể dục còn nhiều điểm hạn chế, số giáo viên dạy thể dục chuyên môn chưa cao, có một số bài tập luyện nhưng chưa đảm bảo yêu cầu, do sân trường không có bóng mát cho các em tập luyện, nội dung cò nghèo nàn, giáo viên chủ yếu dạy xoay quanh các nội dung đội hình đội ngũ và các bài thể dục tay không hay các bài tập đơn giản như: chạy, nhảy để dạy cho các em. Theo như chúng ta đã biết giờ học thể dục của các em rất quý giá và cần thiết sau một thời gian phải ngồi trên lớp và động não với nhiều môn thì các em lại muốn ra sân tập để chạy nhảy và thay đổi bầu không khí giảm đi sự căng thẳng. Nhưng với thực tế giảng dạy thể dục trong nhà trường thì chưa giúp ích được nhiều cho các em, chưa lôi cuốn các em, các em vận động còn ít vì vậy thể lực các em vẫn còn ye
File đính kèm:
- SKKN_TRO_CHOI_VAN_DONG_TRONG_DAY_THE_DU_THCS.doc