Đề tài Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam

Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 20 năm (1979-2003) thực hiện cải cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu sắc.Về nhiều mặt, Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương, trải qua gần một phần tư thế kỷ, ngoại thương Trung Quốc đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất nhập khẩu (năm 1978) đến nay Trung Quốc đã là cường quốc ngoại thương lớn thứ 5 trên thế giới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 620,8 tỷ USD năm 2002 (tăng gấp 30 lần so với năm 1978). Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại thương Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI.

Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết.

Với lý do trên, em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam”. Bản khóa luận này chủ yếu đi sâu vào phân tích các bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc trong tiến trình mở cửa và cải cách kinh tế từ năm 1979 đến nay, để trên cơ sở đó tham khảo một cách có phê phán và chọn lọc những kinh nghiệm có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn ngoại thương Việt Nam, đưa ra những gợi ý nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngoại thương đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI.

Khóa luận được xây dựng dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê và so sánh.

Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục bản khóa luận gồm có 3 chương:

Chương I: Tình hình ngoại thương Trung Quốc từ năm 1979 đến nay

Chương II: Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc

Chương III: Một số gợi ý đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam từ bài học kinh nghiệm của Trung Quốc

 

doc115 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm cho lao động thành thị, khuyến khích nhân công dư thừa ở nông thôn từng bước chuyển sang các ngành phi nông nghiệp và di chuyển có trật tự giữa các vùng. Vận dụng các biện pháp kinh tế để điều tiết cơ cấu việc làm.
+ Phát triển thị trường nhà đất: thực hiện chế độ chuyển nhượng đất đai có bồi thường và có thời hạn. Thiết lập cơ chế giá về quyền sử dụng đất theo thị trường.
+ Phát triển thị trường kỹ thuật và thông tin. Thực hiện chuyển nhượng thành quả kỹ thuật có bồi thường, thương nghiệp hoá và công nghiệp hoá các sản phẩm tin học.
Đặc biệt, sự tăng trưởng kinh tế hiện nay, chủ yếu được quyết định ở nguồn vốn và nhân lực có tính sáng tạo. Do vậy vai trò của chính phủ là điều tiết chính sách khai thác hai loại nguồn vốn này trong việc thu hút FDI. Chính phủ đưa ra các loại dịch vụ ngân hàng, tiền tệ và tăng cường quản lý, giám sát chúng. Đồng thời Chính phủ cũng tăng cường bảo hộ quyền tài sản về chất xám, đẩy mạnh kế hoạch đào tạo, cung cấp nhân tài có tính kỹ năng đặc biệt cho việc đầu tư của TNCs cần đến. Chính phủ còn sử dụng các xí nghiệp trong nước, những đơn vị đã hoặc đang có trình độ kỹ thuật và quản lý tốt, thực hiện một số khâu trong dây chuyền sản xuất của TNCs để sản xuất thí điểm một số loại sản phẩm do TNCs nghiên cứu, phát triển, sau đó giao lại cho các xí nghiệp này hoàn thiện để xuất khẩu. Điều chỉnh trọng tâm việc hỗ trợ phát triển cho các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu với mục tiêu 60% sản phẩm dành cho xuất khẩu. Ngoài ra, chính phủ còn giải quyết tốt khâu cung ứng vật tư, nguyên liệu để TNCs có thể áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Với những khuyến khích trên, hiện nay trong số 500 TNCs đứng đầu thế giới đã có khoảng 400 TNCs đầu tư vào Trung Quốc [9]. Các công ty này mang tới Trung Quốc những hạng mục thuộc loại hình lớn, kỹ thuật cao, cách quản lý khoa học, hiệu quả kinh doanh tốt. Nó có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao trình độ kỹ thuật của Trung Quốc, nâng cấp đối với thế hệ sản phẩm, cải thiện kết cấu ngành nghề chặt chẽ của Trung Quốc.
Trong hoạt động thu hút FDI nói chung và hoạt động thu hút FDI vào phát triển ngoại thương, Chính phủ TQ đã đóng vai trò hết sức quan trọng. Những nỗ lực của Trung Quốc đã được đền đáp khi mà các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng đóng góp nhiều hơn cho hoạt động ngoại thương TQ, thể hiện là:
Kể từ khi tiến hành cải cách mở cửa, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) liên tục tăng lên. Theo số liệu từ Bộ Thương mại Trung Quốc, trong năm 2002 giá trị xuất nhập khẩu của các FIE đạt 330,21 tỷ USD, tăng 27,4%, cao hơn 5,6% so với tỷ lệ tăng xuất nhập khẩu của cả nước (21,8%), chiếm 53,19% tổng xuất nhập khẩu của cả nước (620,8 tỷ USD), tăng 2,36% so với năm 2001, đóng góp đáng kể vào hoạt động ngoại thương của Trung Quốc [20].
Bảng: Xuất nhập khẩu của FIE Trung Quốc giai đoạn 1986-2002
Đơn vị: Giá trị (100 triệu USD) - Tỷ trọng so với toàn quốc(%)
Năm
Xuất nhập khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
1986
29,85
4,04
5,82
1,88
24,03
5,60
1987
45,84
5,55
12,10
3,07
33,74
7,81
1988
83,43
8,12
24,61
5,18
58,82
10,64
1989
137,10
12,28
49,14
9,35
87,96
14,87
1990
201,15
17,43
78,13
12,58
123,02
23,06
1991
289,55
21,34
120,47
16,75
169,08
26,51
1992
437,47
26,43
173,60
20,44
263,87
32,74
1993
670,70
34,27
252,37
27,51
418,33
40,24
1994
876,47
37,04
347,13
28,69
529,34
45,78
1995
1098,19
39,10
468,76
31,51
629,43
47,66
1996
1371,10
47,29
615,06
40,71
756,04
54,45
1997
1526,20
46,95
749,00
41,00
777,20
54,29
1998
1576,79
48,68
809,62
44,06
767,17
54,73
1999
1831,33
50,78
886,28
45,47
858,84
51,83
2000
2367,14
49,91
1194,41
47,93
1172,73
52,10
2001
2590,98
50,83
1332,35
50,06
1258,63
51,67
2002
3302,10
53,19
1602,70
54,29
1699,40
52,19
Nguồn: Thống kê của Hải quan Trung Quốc, do Hà Mạn Quần và Trương Trường Xuân trích dẫn trong Báo cáo tại Hội thảo Đầu tư trực tiếp nước ngoài: kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc 28-29/11/2002 do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Việt Nam tổ chức [9]
Kết quả xuất khẩu nổi bật của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc. Các doanh nghiệp này có lợi thế hơn các doanh nghiệp trong nước trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình, các lợi thế đó bao gồm: công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý và kiểm tra chất lượng tốt hơn, sản phẩm có danh tiếng hơn và có hệ thống tiêu thụ quốc tế rộng lớn hơn. 
Khu vực ĐTNN không chỉ thúc đẩy tăng trưởng tổng lượng xuất khẩu mà còn thúc đẩy việc cải thiện cơ cấu và nâng cấp sản phẩm xuất khẩu. Chỉ trong mấy năm qua, cơ cấu xuất nhập khẩu thể hiện khuynh hướng phát triển tích cực. Giá trị các sản phẩm sơ chế từ 18,79% tổng giá trị xuất khẩu năm 1997 đã giảm xuống còn 17% năm 2001. Trong khi đó, giá trị các sản phẩm chế tạo đã tăng từ 80,95% tổng giá trị xuất khẩu năm 1997 lên 83% năm 2001 [9]. Kết cấu hàng hoá ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc tham gia ngày càng sâu vào mậu dịch thế giới. (Xem phụ lục3: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN 1994-2001). Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã có những chuyển biến về chất. Các doanh nghiệp đang chuyển mạnh từ công nghệ sử dụng nhiều lao động sang công nghệ sử dụng nhiều vốn. Số liệu điều tra mới đây cho thấy, hơn 60% các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Trung Quốc áp dụng những công nghệ mới được đưa ra trong 3 năm gần nhất [9]. Điều này cho thấy, doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Trung Quốc đang đi đầu trong việc chuyển lên những nấc thang công nghệ cao hơn, hứa hẹn thúc đẩy nhanh hơn nữa sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc theo hướng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
3. Kiên trì cải cách thể chế quản lý ngoại thương
Nhận thức được tình hình và xu hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, Trung Quốc đã có những thay đổi to lớn trong việc thực hiện cải cách thể chế kinh tế, đặc biệt là thể chế ngoại thương. Thể chế ngoại thương được cải cách chính thức từ tháng 9/1984 sau 5 năm thí điểm và đến nay đã được thực hiện toàn diện. Mục tiêu chủ yếu của cuộc cải cách này là mở rộng quyền hạn chủ động kinh doanh ngoại thương, khơi dậy tính tích cực, năng động, sáng tạo cho các xí nghiệp sản xuất và các công ty xuất nhập khẩu ngoại thương, đẩy mạnh việc mở rộng kênh tiêu thụ hàng hóa ra thị trường ngoài nước, tăng cường sức cạnh tranh và nâng cao vị trí của hàng hóa xuất khẩu trên trường quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ mậu dịch của Trung Quốc với các nước trên thế giới. Những chính sách cải cách lớn trong lĩnh vực ngoại thương được thực hiện trong những năm qua bao gồm:
3.1. Đa nguyên hóa thành phần kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương
Thể chế ngoại thương của Trung Quốc trước khi cải cách về cơ bản là do công ty chuyên ngành về ngoại thương cấp trung ương quản lý: công ty ngoại thương căn cứ vào kế hoạch của Nhà nước mà tổ chức xuất nhập khẩu, ngân sách Nhà nước chịu trách nhiệm về lỗ lãi, giữa việc xuất nhập khẩu với sản xuất hoàn toàn tách biệt nhau. Cùng với công cuộc cải cách và theo sự phát triển của cơ chế thị trường, thể chế kinh doanh ngoại thương kiểu tập trung cao độ đã dần dần bị xóa bỏ, các đơn vị ngoại thương được tự do hơn trong kinh doanh và đóng vai trò chủ thể của thị trường, tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi. Trong lĩnh vực ngoại thương đã hình thành cách kinh doanh cạnh tranh bình đẳng dưới sự chỉ đạo chung của một chính sách thống nhất.
Tháng 7/1979, Trung ương Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện thí điểm "chính sách đặc biệt và biện pháp linh hoạt" tại hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến, nhằm khuyến khích và mở rộng hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. Hai tỉnh này được phép tự sắp xếp hoạt động kinh doanh của tỉnh mình dưới sự chỉ đạo của Nhà nước, được phép tự xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu các loại vật tư cần thiết cho tỉnh mình, không chịu sự hạn chế của chính quyền trung ương. Sau 3 năm thực hiện, việc thí điểm đạt kết quả rõ rệt. Lĩnh vực ngoại thương đã khắc phục được tình trạng kinh doanh đơn lẻ, động viên được tính tích cực kinh doanh của ngành và xí nghiệp sản xuất trong hai tỉnh này. Trên cơ sở đó, từ năm 1982, Trung Quốc đã triển khai hình thức thí điểm này, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương xuống nhiều địa phương khác và xây dựng mới các công ty ngoại thương. Nhà nước đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể như sau:
- Đưa quyền sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp sản xuất cỡ vừa và nhỏ, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho Tổng công ty xuất nhập khẩu.
- Ưu tiên cho hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến mở rộng hơn quyền hạn xuất nhập khẩu, hai tỉnh được phép tự sắp xếp sản xuất và tiêu thụ.
- Cho phép các địa phương có thể thành lập các công ty ngoại thương địa phương. Các thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh cũng được phép thành lập Tổng công ty ngoại thương riêng.
- Cho phép 19 bộ, ngành của trung ương được thành lập công ty xuất nhập khẩu để phân tán một số hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc Bộ ngoại thương trước đây kinh doanh sang các công ty xuất nhập khẩu thuộc các Bộ ngành hữu quan, tạo điều kiện mở rộng kênh buôn bán và tăng cường kết hợp giữa sản xuất và tiêu thụ.
Chính sách trên đây là điểm khởi đầu mở ra bước ngoặt mới quan trọng khơi dậy tính tích cực trong hoạt động ngoại thương của Trung Quốc trong tình hình mới, có tác dụng to lớn trong việc mở rộng lĩnh vực mậu dịch đối ngoại, hình thành các chủ thể mới của hoạt động ngoại thương. Tính đến cuối năm 1999, chủ thể kinh doanh ngoại thương rất đa dạng, cả nước đã có hơn 17.000 xí nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu các loại, bao gồm 7.628 công ty ngoại thương, 7.803 xí nghiệp tự sản xuất kinh doanh ngoại thương, 925 viện nghiên cứu khoa học, 260 cơ quan vật tư thương nghiệp... ngoài ra còn có trên 3000 cơ sở buôn bán tiểu ngạch ở biên giới [17].
Sau khi gia nhập 

File đính kèm:

  • docphat trien ngoai thuong.doc