Chuyên đề Một số vấn đề về đảng cầm quyền và công tác xây dựng đảng trong tình hình mới
Khái niệm Đảng lãnh đạo là để chỉ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
từ khi thành lập đến nay; tức là vai trò lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ tiến
trình cách m ạng Việt Nam.
“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một
đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền
để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Đối
với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vai trò của Đảng khi đã
giành được chính quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã có chính quyền;
Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các
đoàn thể nhân dân.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau
này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm
quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền,
Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết:
“Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của
Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền”.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền
khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các
tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương
đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó
tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng
với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn
thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng
2
viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để
phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất
để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài
cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính
quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của
Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để
nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện Đảng đã có chính
quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa
rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được chính quyền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối và suy
thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội
xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của
một Đảng cầm quyền.
Trong quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản, việc tồn tại một đảng hay
nhiều đảng ở mỗi nước là do những điều kiện lịch sử -cụ thể quy định, không có
khuôn mẫu chung cho tất cả các nước, cũng như chung cho mọi giai đoạn, mọi
thời kỳ trong phạm vi một nước. Ở Việt Nam từ giữa 1947 đến năm 1988, ngoài
Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, còn có hai đảng: Đảng Dân chủ Việt Nam
và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính quyền, nhưng hai Đảng trên đều thừa
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ tháng 11 năm 1988 đến
nay, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ở Cu Ba, Lào cũng chỉ có một đảng cầm quyền. Ở Trung Quốc,
ngoài Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền, còn 8 đảng phái dân chủtham chính,
nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc v.v Vấn đề
chủ yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một cách khoa học,
dân chủ và theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của các
tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân.
khác nhau. - Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và yếu kém trong đội ngũ cán bộ đã tác động tiêu cực, cản trở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. - Chậm ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy chế, quy định về sự lãnh đạo và phối hợp công tác giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị. 2. Một số vấn đề tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng a) Mục tiêu: Nghị quyết Trung ương 5 khoá X xác định mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm: - Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân; - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; - Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; - Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; - Đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng XHCN. b) Quan điểm chỉ đạo: Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) nêu 4 quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị như sau: Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 14 Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm cao, đồng thời có bước đi vững chắc. Vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm. Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng ngành. c) Nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá X) đã nêu 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể là: - Đối với hoạt động của Quốc hội và Chủ tịch nước; - Đối với hoạt động của Chính phủ; - Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp và Kiểm toán Nhà nước; - Đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; - Đối với công tác cán bộ; - Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan Đảng; - Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương. Phần thứ hai TÌNH HÌNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, GIẢI PHÁP CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI I. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI GIAN QUA Trên cơ sở tổng kết thực tiễn của công tác xây dựng Đảng qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội XI của Đảng chỉ rõ những ưu, khuyết điểm chính sau: 1. Về ưu điểm 15 - Đã chủ động và coi trọng nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, chiến lược và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng. - Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chủ động hơn trong đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. - Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ. Tổ chức bộ máy của cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp , kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. - Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, chú ý vùng sâu, vùng xa, những loại hình mới; điều chỉnh quy chế hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Quan tâm công tác phát triển Đảng, nhất là ở những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên. - Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ và có một số đổi mới về nội dung và cách làm. Giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, quyết định tập thể; bước đầu phát huy vai trò của các tổ chức, người đứng đầu và nhân dân trong công tác cán bộ. Đề ra và từng bước cụ thể hoá "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Triển khai tương đối đồng bộ và đổi mới cách làm trong các khâu của công tác cán bộ: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy định, quy chế để thực hiện. Công tác luân chuyển và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có chuyển biến tích cực. Quan tâm hơn về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, làm rõ và kết luận nhiều hơn hợp vi phạm về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay. - Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đã đạt được một số kết quả nhất định; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, 16 lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định cụ thể, phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Việc quy định và thực hiện chủ trương đảng viên làm kinh tế tư nhân đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm chỉ đạo và coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Đã chú trọng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chủ trương, Điều lệ Đảng và trong công tác cán bộ; kiểm tra theo chương trình, kế hoạch và có trọng tâm, trọng điểm. Qua kiểm tra đã xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm, kể cả đối với cán bộ cao cấp; kiên quyết đưa ra xét xử một số vụ án lớn, gây bức xúc trong nhân dân. - Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư ở cơ sở và trực tiếp bầu bí thư ở cấp trên cơ sở. Phong cách lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát, gần gũi nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện đối với cấp dưới. 2. Khuyết điểm, yếu kém Tuy đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa gương mẫu; chưa kiên quyết xử lý người để xảy ra tham nhũng, lãng phí. Cụ thể là: - Công tác chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót: Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn vẫn chưa làm sang tỏ một số vấn đề vè Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình tham nhũng, quan liêu, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn có biểu hiện hình thức. - Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ 17 ràng; mới giảm được đầu mối trực thuộc Trung ương nhưng đầu mối bên trong và biên chế không giảm, thậm chí còn tăng lên. - Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu những cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá , bổ nhiệm, miễn nhiệm và từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là một khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, huân chương chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xã; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Chưa quy định cụ thể mối quan hệ về trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là với người đứng đầu. Chưa kiên quyết, thiếu quy chế thay thế kịp thời cán bộ lãnh đạo yếu kém, trì trệ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là đối với những vấn đề chính trị hiện nay còn nhiều lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm công tác bảo vệ chính trị nội bộ, một số nơi phiến diện, thiếu chặt chẽ. - Nhi
File đính kèm:
- 2-ChuyendeXayDungDang.pdf