Chuyên đề Một số biện pháp xây dựng nề nếp tự quản cho học sinh Lớp 4,5

doc16 trang | Chia sẻ: Hoài Chi | Ngày: 31/07/2025 | Lượt xem: 36 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp xây dựng nề nếp tự quản cho học sinh Lớp 4,5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN TRUNG
 Tổ 4,5
 CHUYÊN ĐỀ
 “MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀ NẾP 
 TỰ QUẢN CHO HỌC SINH LỚP 4,5”
 Ngày báo cáo : 27 / 11 /2024
 Người báo cáo : Phan Thị Thanh Hòa
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Xây dựng nề nếp tự quản cần được xem là nội dung quan trọng trong công 
tác chủ nhiệm và là đổi mới về phương giáo dục đạo đức, công tác giáo dục kĩ năng 
sống, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng hợp tác cho học sinh, đặc biệt là học sinh ở 
lứa tuổi lớp 4, 5 nói riêng và Tiểu học nói chung. Mục đích của việc rèn nề nếp tự 
quản là nhằm nâng cao tính tự giác trong học tập của học sinh, phát huy tính tích 
cực, chủ động của tất cả học sinh trong lớp ở từng mảng công việc. Đồng thời giúp 
học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong các hoạt động, phong trào của trường, lớp. 
 Thực tế đã chứng minh, một lớp học có nề nếp kỉ luật tốt nhất định sẽ có nề 
nếp học tập tốt. Muốn có nề nếp kỉ luật trong học tập tốt thì học sinh phải có khả 
năng tự quản và tinh thần tập thể cao; các em mới có thể kiểm tra nhau, nhắc nhở và 
thi đua nhau để cùng thực hiện những yêu cầu của giáo viên, nhà trường đề ra. Học 
sinh lớp 4,5 đang ở tuổi 9,10, các em đã có một đến hai năm làm quen với tổ chức 
Đội TNTP. Các em cũng đã thấy được những hoạt động của Đội đòi hỏi tính tự giác, 
tinh thần tập thể cao. Vì vậy, việc rèn cho các em tính tự quản, tinh thần tập thể sẽ 
giúp các em có tính chủ động, sáng tạo, mạnh dạn hơn trong học tập và tham gia các 
hoạt động một cách tích cực hơn.
 Thực tế cho thấy, trong những tuần đầu của năm học mới, đa số học sinh vẫn 
chưa có ý thức tự quản: như sinh hoạt 15 phút đầu giờ còn ồn, lộn xộn, ý thức tự 
học, tự rèn chưa cao. Nhiều em còn nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học còn 
các giờ sinh hoạt sân trường học sinh còn nói chuyện nhiều, một số em vi phạm nội 
quy trường, lớp. Học sinh chưa tích cực, tự giác trong công tác lao động vệ sinh 
trường lớp. Một số em đã có ý thức tự quản nhưng chưa bền, khi có mặt của giáo 
viên thì tỏ ra nghiêm túc nhưng vắng mặt giáo viên hoặc cán sự lớp thì vẫn làm việc 
riêng, không hợp tác. Đội ngũ cán sự lớp còn lúng túng, các em chưa biết cách quản 
lí lớp. 
 Từ thực trạng trên, với mục tiêu tìm kiếm con đường, phương pháp tốt nhất để 
góp phần nâng cao năng lực tự học nói riêng, chất lượng giáo dục toàn diện cho học 
sinh lớp 4, 5 nói chung, tôi đã vận dụng có hiệu quả “Một số biện pháp xây dựng 
nề nếp tự quản cho học sinh lớp 4,5”.
 II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ
 Biện pháp 1. Xây dựng đội ngũ cán sự lớp
 1.1. Bầu Ban cán sự lớp. Lên lớp 4,5, học sinh đã lớn, tôi muốn tạo dựng và rèn luyện cho các em thể 
hiện tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với tập thể, nên tôi tổ chức cho các 
em ứng cử và đề cử để chọn lựa Ban cán sự của lớp. Tiến trình bầu chọn Ban cán sự 
lớp được diễn ra như sau:
 - Trước hết, tôi phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách nhiệm của 
người lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng.
 - Tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử và đề cử. Tổ chức cho các em 
bầu chọn bằng hình thức biểu quyết. Sau đó cả lớp bầu chọn 7 học sinh tiêu biểu là 
Ban cán sự của lớp.
 1.2. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp.
 Sau khi bầu chọn được ban cán sự lớp thì nhiệm vụ tiếp theo là phân công 
nhiệm vụ cụ thể và giao trách nhiệm cho ban cán sự lớp.
 * Nhiệm vụ của lớp trưởng (phụ trách chung) : Quản lý sinh hoạt 15 phút đầu 
giờ, theo dõi chung các hoạt động của lớp, tổng hợp kết quả thi đua và điều hành tiết 
sinh hoạt cuối tuần; phụ trách việc mượn và trả sách trong tủ sách của lớp. 
 * Nhiệm vụ của lớp phó học tập: Theo dõi nề nếp học tập chung, tổng hợp 
đánh giá hoạt động học tập vào tiết sinh hoạt cuối tuần; điều khiển các bạn trao đổi, 
thảo luận hoặc trả lời câu hỏi trong tiết học khi giáo viên yêu cầu.
 * Nhiệm vụ của lớp phó văn thể: Theo dõi, đôn đốc các hoạt động văn nghệ, 
thế dục giữa giờ, tổng hợp để đánh giá vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
 * Nhiệm vụ của lớp phó lao động: Phân công, theo dõi, đôn đốc công tác lao 
động, vệ sinh trường, lớp, chăm sóc bồn hoa, tổng hợp để đánh giá vào tiết sinh hoạt 
cuối tuần.
 1.3. Bồi dưỡng năng lực Ban cán sự lớp 
 Sau khi thành lập, tôi tổ chức họp Ban cán sự, xác định nhiệm vụ cụ thể cho 
từng thành viên; hướng dẫn cho các em cách điều hành, quản lý các hoạt động trong 
lớp; tập huấn, bồi dưỡng thêm một số kỹ năng như quản lí lớp học, quản lí các hoạt 
động học tập, kiểm tra các hoạt động của các tập thể cá nhân, Mỗi thành viên 
trong Ban cán sự lớp có nhiệm vụ riêng nhưng đều thực hiện mục tiêu chung là làm 
cho phong trào của lớp đi lên. 
 1.4. Hướng dẫn Ban cán sự lớp lập kế hoạch hoạt động
 Căn cứ vào kế hoạch chung của trường, tình hình đặc điểm của lớp, theo từng 
tuần, từng tháng tôi đã hướng dẫn Ban cán sự lớp xây dựng kế hoạch về các hoạt 
động như sinh hoạt lớp 15 phút đầu giờ, sinh hoạt lớp cuối tuần cụ thể, chi tiết và tổ 
chức thực hiện nghiêm túc dưới sự giám sát của GVCN và đội Sao đỏ. 
 Biện pháp 2. Rèn tính tự quản thông qua Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên 
lớp
 Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những nội dung giáo dục toàn diện 
học sinh. Với mục đích tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm khắc sâu các bộ 
môn văn hóa bằng cách tổ chức ngoài giờ học. 
 Thông qua tiết Hoạt động goài giờ lên lớp học sinh được nói, được hát, được 
vẽ, được nêu ý kiến, được thể hiện mình. Nội dung tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp 
cũng rất đa dạng, phong phú nhưng nên đưa ra các hoạt động theo chủ điểm giáo 
dục như: Tìm hiểu về an toàn giao thông; Tri ân thầy cô giáo; Yêu quý mẹ và cô giáo; Kính yêu Bác Hồ Trong các hoạt động đó, học sinh có thể hát, múa, kể 
chuyện, đọc thơ, vẽ tranh và nhiều hình thức khác theo các chủ điểm. 
 Hoạt động ngoài giờ lên lớp bao giờ cũng được tổ chức trong mối quan hệ 
của tập thể và các mối quan hệ giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với 
nhóm. Vì vậy trước khi lớp tham gia Hoạt động ngoài giờ lên lớp do Liên đội, 
trường tổ chức GVCN phải:
 - Phổ biến nội dung, hình thức tham gia của lớp, của nhóm đến tận học sinh;
 - Phân công sự chuẩn bị, các điều kiện để tham gia; 
 - Phân công sự phối hợp, hỗ trợ nhau khi tham gia hoạt động;
 - Hướng dẫn trước cho Ban cán sự cách điều hành lớp tham gia hoạt động;
 Biện pháp 3 . Rèn nề nếp tự quản qua “giờ tự quản” trên lớp
 Như chúng ta đã biết, giờ tự quản là khoảng thời gian “không có giáo viên”, 
các em tự học, tự rèn, tự giữ kỉ luật trên lớp. Đội ngũ cán sự lớp có vai trò quan 
trọng trong các giờ tự quản này. Bên cạnh đó, ý thức tự giác của mỗi học sinh là yếu 
tố quyết định trong giờ tự quản tốt hay không. Muốn vậy giáo viên cần đẩy mạnh 
công tác thi đua để học sinh phấn đấu đạt thành tích tốt trong thi đua của cá nhân, 
nhóm, tổ... đến thi đua lớp, trường.
 Tương ứng với từng nội dung sinh hoạt ở các buổi, các em trong ban cán sự 
lớp thay phiên nhau điều hành và tổ chức cho cả lớp thực hiện. Nội dung sinh hoạt 
15 phút đầu giờ có thể chữa bài tập, kiểm tra bài ở nhà, đọc sách báo, hát Trong 
quá trình thực hiện các tổ theo dõi và ghi chép lại những bạn không thực hiện 
nghiêm túc và đánh giá vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
 Sau mỗi giờ tự quản, giáo viên cần rút kinh nghiệm, đưa ra nhận xét, nhắc 
nhở hay tuyên dương những cá nhân, tổ, nhóm thực hiện tốt giờ tự quản.
 Ví dụ: Vào lúc truy bài 15 phút đầu giờ, lớp trưởng yêu cầu các bạn lấy vở 
nháp ra làm các phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân. Thời gian này các tổ 
trưởng sẽ tự quản tổ mình, kiểm tra vở bài tập Toán của các bạn trong tổ còn lớp 
trưởng, lớp phó quản lí chung. Những bài học nào mà trong lớp các em chưa thực 
hiện được thì được bạn lớp phó phụ trách học tập hướng dẫn, giảng giải rất tỉ mĩ, rõ 
ràng; sau đó, những bạn chưa hiểu rõ sẽ vận dụng chữa bài. 
 Biện pháp 4. Tổ chức các hình thức thi đua tuyên dương, khen thưởng 
 4.1. Thi đua cá nhân
 Dựa vào sổ ghi chép của tổ trưởng trong tuần, vào mỗi tiết sinh hoạt, tôi 
thường tổ chức cho lớp bình chọn thi đua bạn xuất sắc của nhóm, tổ. Hình thức khen 
thưởng có thể là thư khen của giáo viên chủ nhiệm, một món quà nhỏ như cây bút, 
quyển vở Từ đó khuyến khích các em say mê, chú ý vào việc học tập, sẽ không có 
thời gian làm việc riêng hay nói chuyện riêng trong giờ học. 
 4.2. Thi đua “Đôi bạn cùng tiến”
 Mỗi bàn tôi cho hai em ngồi, học sinh có năng lực khá, tốt ngồi cùng học sinh 
trung bình, yếu để tiện giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong học tập. Trong mối tiết dạy, tôi 
dành thời gian kiểm tra các em yếu, kém của bàn, nếu em đó hoàn thành tốt thì khen 
thưởng cả hai em bằng bông điểm tốt, có tiến bộ thì khen ngay trước lớp sau khi làm 
bài xong. Cuối tuần bạn nào có nhiều hoa điểm tốt thì bàn đó được khen thưởng, 
phần thưởng có thể là tập giấy kiểm tra hoặc một chiếu bút màu để động viên các em. Cách làm này, được học sinh hưởng ứng nhiệt tình, không chỉ các em giúp đỡ, 
kèm cặp bạn trong giờ học mà còn mà còn thực hiện trong giờ ra chơi.
 4.3. Thi đua nhóm học tập tốt 
 Thành lập mỗi nhóm khoảng 4-5 em, hình thức thi đua là các nội dung yêu cầu 
thảo luận nhóm của tiết học, nhóm nào có tinh thần hợp tác tốt, kết quả thảo luận 
đúng, nhanh nhất thì nhóm đó được khen thưởng. Phần thưởng có thể là tập giấy 
kiểm tra, hoặc hộp bút màu cho cả nhóm. Trong lúc thảo luận, nhóm nào ồn ào, mất 
trật tự vi những chuyện ngoài lề thì nhóm đó không được tính điểm thi đua của buổi 
học đó. 
 Việc sử dụng hình thức tuyên dương khen thưởng kịp thời, đúng lúc trong học 
tập, trong các buổi sinh hoạt cuối tuần thực sự có ý nghĩa to lớn trong việc tạo cảm 
hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh tiến bộ từng ngày.
 III. KẾT LUẬN
 Các biện pháp mà tôi nêu trên đã được vận dụng vào thực tiễn dạy học và có 
hiệu quả nổi trội nhất trong việc hình thành, phát triển năng lực tự quản cho mỗi học 
sinh, xây dựng được nề nề tự của lớp tốt. 
 Biện pháp còn này góp phần khắc phục được hạn chế học sinh nói chuyện, 
làm việc riêng lúc không có giáo viên trên lớp hoặc trong các tiết hoạt động tập thể. 
Giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực của bản thân, tạo điều kiện cho các 
em quen dần với ý thức tự giác, tự học; đồng thời biết quan tâm giúp đỡ nhau tạo 
được một tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, tiến bộ.
 Đối với giáo viên, đã làm thay đổi cách dạy, phương pháp giáo dục cũ; nhận 
thức rõ và đúng đắn về tầm quan trọng của việc xây dựng nề nếp tự quản cho học 
sinh, tích cực thực hiện các biện pháp nhằm giáo dục học sinh phát triển một cách 
toàn diện, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
 GV báo cáo:
 Phan Thị Thanh Hòa TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN TRUNG Tổ 4,5
 CHUYÊN ĐỀ
 DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ LỚP 5 
 THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
 Ngày báo cáo : 25 / 10 /2023
 Người báo cáo : Phan Thị Thanh Hòa
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Để dạy tốt môn lịch sử ở Trường Tiểu học người giáo viên phải có kiến thức 
lịch sử, phải nắm chắc nội dung và phương pháp tổ chức quá trình dạy học. Đây là 
một hoạt động nhận thức khoa học, nếu giải quyết được vấn đề này sẽ có tác dụng 
không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học cho môn lịch sử nói chung và môn 
lịch sử lớp 5 nói riêng.
 Qua nghiên cứu khảo sát một số đối tượng học sinh, tôi nhận thấy: Hầu hết 
các em không thích học lịch sử, nắm kiến thức lịch sử còn mơ hồ. Điều này rất đáng 
lo ngại và là một câu hỏi lớn cho những người làm công tác giáo dục. Mở đầu bài 
diễn ca năm 1942 Bác Hồ đã nhắc nhở:
 “ Dân ta phải biết sử ta,
 Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
 Chính vì lẽ đó mà tôi đã tìm tòi, học hỏi để tìm ra “Phương pháp dạy học môn 
lịch sử lớp 5 theo hướng tích cực”. Nhằm làm cho việc học tập của học sinh trở nên 
lý thú, gắn bó với thực tiển. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi 
thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc
 II. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ:
 Đổi mới phương pháp dạy lịch sử ở trường tiểu học là quá trình áp dụng 
phương pháp dạy học hiện đại vào nhà trường, trên cơ sở phát huy những yếu tố tích 
cực của phương pháp dạy học truyền thống nhằm thay đổi cách thức, phương pháp 
học tập của học sinh: Chuyển từ học tập thụ động, ghi nhớ kiến thức là chính sang 
học tập tích cực, chủ động sáng tạo, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn 
luyện kỷ năng vận dụng kiến thức vào thực tỉên. Để đổi mới phương pháp học tập 
của học sinh tất nhiên phải đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Đổi mới 
phương pháp dạy học là quá trình:
 - Chuyển từ giáo dục truyền thụ một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là ghi 
nhớ kiến thức để đối phó với thi cử sang học tập tích cực, chủ động sáng tạo, chú 
trọng hình thành năng lực tự học dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên
 - Đổi mới hình thức tổ chức dạy học, làm cho việc học tập của học sinh trở 
nên lý thú, gắn với thực tiển, gắn với cuộc sống; kết hợp dạy học cá nhân với dạy 
học theo nhóm nhỏ, tăng cường sự tương tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa học sinh trong 
quá trình học tập.
 Muốn làm tốt được những vấn đề trên việc đầu tiên người giáo viên phải đưa 
ra được một “mô hình dạy học” theo quan điểm đổi mới.
 Tôi xin đưa ra “mô hình dạy học” theo quan điểm đổi mới như sau:
 1. Định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập
 Muốn định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập được tốt phần nêu vấn 
đề của giáo viên phải đạt được cácc yêu cầu sau:
 - Lời dẫn phải súc tích, giàu tính khái quát và giàu hình ảnh - Phải đề cập tới cốt lỏi của bài học
 - Tạo ấn tượng, gợi trí tò mò của học sinh
 2. Tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu
 - Việc tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu (Kênh chữ, kênh hình) 
trong SGK, giúp các em có những hình ảnh cụ thể về sự kiện, hiện tượng lịch sử. 
Đây là khâu cực kỳ quan trọng của quá trình nhận thức lịch sử. Bởi nếu không dựa 
trên các hình ảnh của sự kiện thì học sinh không thể nhận thức được tư duy. Ở bước 
này có thể thực hiện bằng các biện pháp sau:
 - Giáo viên trình bày các sự kiện, sự việc, hiện tượng bằng phương pháp 
tường thuật, miêu tả, kể chuyện kết hợp với các phương pháp trực quan để học sinh 
thấy rõ được hình ảnh quá khứ.
 - Học sinh làm việc với các sự kiện được trình bày trong SGK.
 3. Tổ chức cho học sinh làm việc, tự giải quyết các nhiệm vụ học tập
 - Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc, tự giải quyết các nhiệm vụ học tập 
mà bản thân đã nêu ở đầu giờ học hoặc đầu mỗi phần bài học.
 - Ở bước này, học sinh có thể trình bày ý kiến các nhân (Viết hoặc nói)Cũng 
có thể trao đổi, thảo luận trong nhóm để rút ra những ý kiến chung.
 4. Kết luận vấn đề
 - Giáo viên cho học sinh nhận xét đánh giá những ý kiến cá nhân hoặc nhóm 
xem các bạn nói đúng hay sai, cần bổ sung thêm gì không ? Sau đó giáo viên kết 
luận:
 - Khẳng định những kết quả học tập của học sinh.
 - Chốt lại những vấn đề cần nắm chắc của bài học.
 * Dạng bài về tình hình kinh tế – chính trị, văn hoá - xã hội: Dạng bài này 
có nhiều ở phần lịch sử lớp 5, nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tình 
hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta sau mỗi thời kỳ(giai đoạn nhất định). Để dạy 
tốt dạng bài này giáo viên cần:
 - Phải mô tả được: Tình hình nước ta (cuối thời kỳ hay sau thời kỳ nào đó) 
như thế nào? ( tình cảnh đất nước, chính quyền, cuộc sống của nhân dân như thế 
nào?)
 - Trong tình cảnh đó chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, 
làm như thế nào?
 - Kết quả của việc làm đó.
 - Vì vậy, khi dạy loại bài này giáo viên triệt để sử dụng phương tiện trực 
quan: tranh ảnh, kênh hình kết hợp với mô tả sinh động nhằm tái tạo hình ảnh sinh 
động về sự kiện, hiện tượng, rèn luyện kỹ năng mô tả, nhận xét, đánh giá, so sánh, 
cảm nhận và liên hệ để học sinh thấy rõ giá trị văn hoá nghệ thuật trong đời ssống 
tinh thần.
 * Dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử: ( Trong chương trình SGK- 
Lịch sử lớp 5, Dạng bài này có ở các bài: bài 1; bài 2; bài 5; bài 6).
 Ở dạng bài này, trong chương trình Tiểu học lớp 5 không giới thiệu Tiểu sử 
của các nhân vật, mà thông qua những sự kiện cơ bản trong sự nghiêp của các nhân 
vật để làm sáng tỏ lịch sử dân tộc. Như vậy, nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền 
với sự kiện lịch sử. Giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật 
những hoạt động và công lao to lớn của nhân vật.
 Khi dạy những bài này giáo viên cần lưu ý một số điểm cơ bản sau: - Mỗi một bài đều có hình ảnh ( Tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử để 
giúp học sinh biết những diện mạo cũng như hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo 
viên cần sử dụng và khai thác tốt những bức ảnh này để phục vụ nội dung bài học.
 - Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật lịch sử đó là 
người như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? làm gì? có đặc điểm, tính cách gì nổi 
bật...)
 - Phải mô tả và tường thuật (hay kể lại) những hoạt động của họ để làm cơ sở 
cho việc đánh giá khách quan, công lao của các nhân vật đó đối với lịch sử.
 - Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư 
tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối 
với nhân vật lịch sử.
 Thông thường đối với dạng bài này giáo viên nên sử dụng các phương pháp 
như kể chuyện, sắm vai .... Giáo viên có thể vừa là người dẫn chuyện, trực tiếp kể 
chuyện có thể là người dẫn dắt, gợi ý giúp học sinh nắm vững cốt truyện. Ngoài ra 
có thể cho học sinh sắm vai.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” giáo viên có thể 
dùng nhiều phương pháp như:
 - Phương pháp kể chuyện: Tìm hiểu về quê hương và thời niên thiếu của 
Nguyễn tất Thành: “ Nguyễn Tất Thành sinh ngày 19/05/1890 tại xã Kim Liên, 
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bố tên là Nguyễn Sinh Sắc và mẹ là Hoàng Thị 
Loan. Thuở nhỏ Nguyễn Tất Thành còn có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung. Lớn lên 
trong bối cảnh nước mất, phải sống trong cảnh tủi nhục. Nguyễn tất Thành sớm 
thấu hiểu tình cảnh đất nước và nổi thống khổ của nhân dân ...”
 - Phương pháp sắm vai: Ở cuộc gặp gỡ giữa Nguyến Tất Thành và anh Lê:
 “ Anh Thành:
 - Anh Lê, anh có yêu nước không ?
 Anh Lê: 
 - (Ngạc nhiên) Tất nhiên là có chứ.
 Anh Thành : 
 - Anh có thể giữ bí mật được không?
 Anh Lê :
 - Có !
 Anh Thành: 
 - Tôi muốn ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác.Sau khi xem xét 
 họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, 
 thật ra cũng có điều mạo hiểm, nhất là những lúc ốm đau. Anh muốn đi với 
 tôi không?
 Anh Lê: 
 - Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi ?
 Anh Thành: 
 - Đây, tiền đây – Anh Thành vừa giơ hai bàn tay ra vừa nói – Chúng ta sẽ làm 
 việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ những việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng 
 đi với chúng tôi chứ ? ....”
 * Dạy học các bài có nội dung đề cập tới các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, 
chiến thắng, chiến dịch, ..... Đây là loại bài có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Do đó, 
giáo viên phải tái hiện sự kiện sinh động cụ thể. Sử dụng câu hỏi về sự phát sinh của 
sự kiện: Nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử 
của sự kiện. Đây là một đặc điểm tư duy lịch sử cần hình thành từng bước cho học 
sinh.
 Mặt khác, đối với loại bài này phần quan trọng nhất là trình bày diễn biến, 
phát triển của sự kiện lịch sử. Vì vậy phải cho học sinh nắm vững mốc thời gian bắt 
đầu diễn ra sự kiện, địa danh, nhân vật lịch sử, các đường tiến công, diễn biến trận 
đánh ...... bằng cách nêu vấn đề, câu hỏi .....
 Sau phần diễn biến là hướng dẫn học sinh tìm hiểu kết quả sự kiện đó và rút 
ra ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm. Đối với loại bài này giáo viên giúp học sinh 
nhận thức mối quan hệ nhân quả của sự kiện, thắng lợi hay thất bại đều có ảnh 
hưởng nhất định đối với lịch sử.
 Với dạng bài này (trong sách giáo khoa là các bài: Bài 3, bài 7, bài 8, bài 9, 
bài 14, bài 15, bài 19, và bài 22) thì miêu tả, tường thuật kết hợp với trực quan là 
những phương pháp chủ đạo. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tự tìm hiểu về 
tư liệu lịch sử rồi mô tả, tường thuật lại diễn biến của sự kiện, giáo viên có vai trò hổ 
trợ, bổ sung giúp học sinh tái hiện lại lịch sử, xây dựng lại biểu tượng lịch sử một 
cách hoàn chỉnh hơn.
 Ví dụ: Khi dạy bài “ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ” giáo viên cần kết 
hợp trực quan với tường thuật để tái hiện 3 đợt tấn công của quân ta vào Điện Biên 
Phủ (Sử dụng lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ - giáo viên vừa tường thuật vừa chỉ 
trên lược đồ) chẳng hạn:
 “ Ngày 13/03/1954, quân ta nổ súng mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ. 
Trong suốt 5 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, quân ta lần lượt tiêu diệt các vị trí 
phòng ngự quan trọng của địch ở phía Bắc như: Đồi Him Lam, Đồi Độc Lập, Bản 
Kéo. Trong đợt tiến công này xuất hiện nhiều tấm gương anh dũng, trong đó hình 
ảnh anh Phan Đình Giót ở trận đánh đồi Him Lam đã lấy thân mình lấp lổ Châu 
Mai cho đồng đội xong lên tiêu dịch địch là một tấm gương như thế ...”
 * Dạng bài ôn tập, tổng kết
 Đây là loại bài học nhằm hệ thống hoá và cũng cố lại những kiếm thức đã học 
cho học sinh sau mỗi một thời kỳ ( giai đoạn lịch sử), iúp các em nắm vững kiến 
thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Đối với loại bài này 
giáo viên cần chuẩn bị chu đáo cho học sinh, lựa chọn phương pháp phù hợp để 
mạng lại hiệu quả tiết dạy cao. Đặc biệt giáo viên dựa vào câu hỏi trong SGK, thiết 
kế hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị trước, Trong tiến trình dạy học, giáo viên 
phải thu hút học sinh vào công việc, phát huy cao nhất tính tích cực của học sinh 
trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như 
vẻ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng.... Đây là yêu cầu quan 
trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kỷ năng rèn luyện bộ môn.
 Thông thường đối với dạng bài ôn tập, tổng kết, giáô viên vận dụng tổng hợp 
nhiều phương pháp (phân tích, tổng hợp, khái quát hoá) kết hợp với vấn đáp – tìm 
tòi, tổ chức làm việc theo nhóm. Tuỳ từng phần nội dung cụ thể mà giáo viên lựa 
chọn phương pháp cho phù hợp. Trong đó, hoạt động nhóm, báo cáo kết quả là 
những phương pháp chiếm nhiều thời gian nhất ngoài ra cỏ thể sử dụng trò chơi lịch 
sử. Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập: Chín năm kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc 
(1945-1954). Sau khi vào bài giáo viên có thể nêu hệ thống câu hỏi (dựa vào SGK) 
để học sinh suy nghỉ và tập trung giải quyết các vấn đề:
 - Tình hình đất nước sau Cách Mạng Tháng 8 Thành công- Chín năm kháng 
chiến chống pháp bắt đầu năm nào? Kết thúc vào năm nào?
 - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch thể hiện điều gi ?
 - Hệ thống một số sự kiện tiêu biểu nhất trong chín năm chống thực dân Pháp 
xâm lược. Về hệ thống sự kiện, giáo viên có thể cho học sinh làm theo nhóm để 
hoàn thành. 
 III. KẾT LUẬN :
 Nói tóm lại muốn dạy học tốt phân môn lịch sử nói chung và ởTiểu học nói 
riêng, người giáo viên cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học. Xác định 
được vị trí, mục tiêu, chuẩn kiến thức và kỷ năng, nội dung cơ bản và trọng tâm của 
bài dạy. Dạy học đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài, phù hợp với tâm sinh lý của 
học sinh và thực tế của lớp học. Ngoài ra, giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, điêu 
luyện về phương pháp và sáng tạo khi vận dụng phương pháp. Bởi vậy trong thời 
gian qua tôi tích cực nghiên cứu từng loại bài cụ thể, đưa ra các phương pháp dạy 
học phù hợp với từng loại bài nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh. 
Từ đó chất lượng dạy học được nâng dần lên, tạo ra niềm say mê, hứng thú học tập 
môn lịch sử của học sinh. Rèn luyện các kĩ năng nhận thức cho học sinh mô tả, 
tưòng thuật, nhận xét, đánh giá,so sánh, tổng hợp, liên hệ... biết vận dụng thực tế 
cuộc sống. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về “Phưong pháp dạy học phân 
môn lịch sử lớp 5 theo hướng tích cực”. Hi vọng rằng, một phần nào đó, kinh 
nghiệm này cũng có tác dụng tích cực đối với các bạn đồng nghiệp, đặc biệt là các 
giáo viên trực tiếp dạy lớp 5.
 GV báo cáo:
 Phan Thị Thanh Hòa A. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình 
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ 
quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì 
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy 
học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy “Cách học cách vận dụng kiến thức, 
rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất”. Điều đó đòi hỏi giáo viên 
xác định rõ các năng lực phẩm chất cần đạt của học sinh qua mỗi bài học, môn học 
để có sự điều chỉnh trong phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm đạt được 
mục tiêu của dạy học theo hướng tiếp cận dạy học năng lực, phẩm chất.
 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
 Tính đến thời điểm hiện tại ( năm học 2022 - 2023) lớp 4, 5 vẫn còn dạy học 
theo chương trình hiện hành 2006. Mặc dù thế để giúp HS dễ dàng hơn khi tiếp cận 
Chương trình GDPT 2018 của cấp học trên và phù hợp với xu thế của dạy học trong 
tình hình hiện nay đòi hỏi GV trực tiếp dạy học lớp 4, 5 cần phải linh hoạt, chủ động 
trong việc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học để hướng HS đến việc phát 
triển các năng lực, phẩm chất của người học. Vì thế GV cần tìm hiểu Chương trình 
tổng thể 2018 để xác định được các năng lực, phẩm cần đạt của HS.
 Trong Chương trình 2018 đã chỉ rõ dạy học học sinh cần phát triển được 5 
phẩm chất và 10 năng lực cốt lõi, trong đó có 3 năng lực chung và 7 năng lực chuyên môn. Trong các năng lực chuyên môn, giáo viên cần xác định rõ hơn, cụ thể 
hơn các năng lực chuyên môn đó, đó gọi là năng lực đặc thù.
 Trong phạm vi chuyên đề này, tôi sẽ đưa ra các năng lực đặc thù của một số 
môn học trong chương trình lớp 4, 5 để GV tham khảo.
 MÔN TOÁN
 Năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hóa toán học; năng 
lực giải quyết vấn đề toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công 
cụ, phương tiện học toán.
 1. Về năng lực tư duy và lập luận toán học
 Biểu hiện của năng lực này là học sinh thực hiện được các hành động sau:
 - So sánh; phân tích; tổng hợp; đặc biệt hóa, khái quát hóa; tương tự; quy nạp; 
 diễn dịch.
 - Chỉ ra được chứng cứ, lí lẽ và biết lập luận hợp lí trước khi kết luận.
 - Giải thích hoặc điều chỉnh cách thức giải quyết vấn đề về phương diện toán 
học.
 2. Về năng lực mô hình hóa toán học
 Biểu hiện của năng lực này là học sinh thực hiện được các hành động sau:
 - Sử dụng các mô hình toán học (gồm công thức, phương trình, bảng biểu, đồ 
thị, ) để mô tả các tình huống đặt ra trong các bài toán thực tế.
 - Giải quyết các vấn đề toán học trong mô hình được thiết lập.
 3. Về năng lực giải quyết vấn đề toán học
 Biểu hiện của năng lực này là học sinh thực hiện được các hành động sau:
 - Nhận biết, phát hiện được vấn đề cần giải quyết bằng toán học.
 - Đề xuất, lựa chọn được cách thức, giải pháp giải quyết vấn đề.
 - Sử dụng được các kiến thức, kĩ năng toán học tương thích (bao gồm các 
công cụ và thuật toán) để giải quyết vấn đề đặt ra.
 - Đánh giá giải pháp đề ra và khái quát hóa cho vấn đề tương tự.
 4. Về năng lực giao tiếp toán học
 Biểu hiện của năng lực này là học sinh thực hiện được các hành động sau:
 - Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép được các thông tin toán học cần thiết được 
trình bày dưới dạng văn bản toán học hay do người khác nói hoặc viết ra.
 - Trình bày, diễn đạt (nói hoặc viết) được các nội dung, ý tưởng, giải pháp 
toán học trong sự tương tác với người khác (với yêu cầu thích hợp về sự đầy đủ, 
chính xác).
 - Sử dụng hiệu quả ngôn ngữ toán học (chữ số, chữ cái, kí hiệu, biểu đồ, đồ 
thị, các liên kết logic, ) kết hợp với ngôn ngữ thông thường hoặc động tác hình thể 
khi trình bày, giải thích và đánh giá các ý tưởng toán học trong sự tương tác (thảo 
luận, tranh luận) với người khác.
 5. Về năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán
 Biểu hiện của năng lực này là học sinh thực hiện được các hành động sau:
 - Biết tên gọi, tác dụng, quy cách sử dụng, cách thức bảo quản các đồ dùng, phương tiện trực quan thông thường, phương tiện khoa học công nghệ (đặc biệt là 
phương tiện sử dụng công nghệ thông tin), phục vụ cho việc học toán.
 - Sử dụng thành thạo và linh hoạt các công cụ, phương tiện học toán, đặc biệt 
phương tiện khoa học công nghệ để tìm tòi, khám phá và giải quyết vấn đề toán học 
(phù hợp với đặc điểm nhận thức lứa tuổi).
 - Chỉ ra được các ưu điểm, hạn chế của những công cụ, phương tiện hỗ trợ để 
có cách sử dụng hợp lí.
 MÔN TIẾNG VIỆT
 a) Năng lực ngôn ngữ
 - Đọc đúng, trôi chảy và diễn cảm văn bản; hiểu được nội dung chính của văn 
bản, chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ 
đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc.
Đối với lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội dung cụ thể, 
hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra được từ văn bản.
 - Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất 
chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được 
quy định tại Chương trình tổng thể. Lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn 
hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản. Viết đoạn văn nêu 
những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng 
kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản 
trong học tập và đời sống .
 - Biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với 
những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn 
giản.
 - Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết 
được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe.
 b) Năng lực văn học
 Phân biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn xuôi và đoạn, bài văn vần); 
nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết; bước đầu hiểu 
được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, 
cốt truyện, vần thơ, so sánh, nhân hoá). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có 
tính văn học trong viết và nói. Đối với lớp 4 và lớp 5: biết cách đọc diễn cảm văn 
bản văn học; kể lại, tóm tắt được nội dung chính của câu chuyện, bài thơ; nhận xét 
được các nhân vật, sự việc và thái độ, tình cảm của người viết trong văn bản; nhận 
biết được thời gian và địa điểm, một số kiểu vần thơ, nhịp thơ, từ ngữ, hình ảnh đẹp, 
độc đáo và tác dụng của các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh. Hiểu được ý nghĩa 
hoặc bài học rút ra từ văn bản. Viết được đoạn, bài văn kể chuyện, miêu tả thể hiện 
cảm xúc và khả năng liên tưởng, tưởng tượng.
 MÔN KHOA HỌC
 1. Nhận thức khoa học tự nhiên − Kể tên, nêu, nhận biết được một số sự vật và hiện tượng đơn giản trong tự 
 nhiên và đời sống, bao gồm một số vấn đề về chất, năng lượng, thực vật, động 
 vật, nấm và vi khuẩn, con người và sức khoẻ, sinh vật và môi trường.
 − Trình bày được một số thuộc tính của một số sự vật và hiện tượng đơn giản 
trong tự nhiên và đời sống.
 − Mô tả được sự vật và hiện tượng bằng các hình thức biểu đạt như ngôn ngữ 
nói, viết, sơ đồ, biểu đồ.
 − So sánh, lựa chọn, phân loại được các sự vật và hiện tượng dựa trên một số 
tiêu chí xác định.
 − Giải thích được về mối quan hệ (ở mức độ đơn giản) giữa các sự vật và hiện 
tượng (nhân quả, cấu tạo - chức năng,...).
 2.Tìm hiểu môi trường tự nhiên xung quanh
 − Quan sát và đặt được câu hỏi về sự vật, hiện tượng, mối quan hệ trong tự 
nhiên, về thế giới sinh vật bao gồm con người và vấn đề sức khoẻ.
 − Đưa ra dự đoán về sự vật, hiện tượng, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện 
tượng (nhân quả, cấu tạo - chức năng,...).
 − Đề xuất được phương án kiểm tra dự đoán.
 − Thu thập được các thông tin về sự vật, hiện tượng, mối quan hệ trong tự 
nhiên và sức khoẻ bằng nhiều cách khác nhau (quan sát các sự vật và hiện tượng 
xung quanh, đọc tài liệu, hỏi người lớn, tìm trên Internet,...).
 − Sử dụng được các thiết bị đơn giản để quan sát, thực hành, làm thí nghiệm 
tìm hiểu những sự vật, hiện tượng, mối quan hệ trong tự nhiên và ghi lại các dữ liệu 
đơn giản từ quan sát, thí nghiệm, thực hành,...
 − Từ kết quả quan sát, thí nghiệm, thực hành,... rút ra được nhận xét, kết luận 
về đặc điểm và mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng.
 3. Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học
 − Giải thích được một số sự vật, hiện tượng và mối quan hệ trong tự nhiên, về 
thế giới sinh vật, bao gồm con người và các biện pháp giữ gìn sức khoẻ.
 − Giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đơn giản trong đó vận dụng kiến 
thức khoa học và kiến thức kĩ năng từ các môn học khác có liên quan.
 − Phân tích tình huống, từ đó đưa ra được cách ứng xử phù hợp trong một số 
tình huống có liên quan đến sức khoẻ của bản thân, gia đình, cộng đồng và môi 
trường tự nhiên xung quanh; trao đổi, chia sẻ, vận động những người xung quanh 
cùng thực hiện.
 − Nhận xét, đánh giá được phương án giải quyết và cách ứng xử trong các 
tình huống gắn với đời sống.
 MÔN LỊCH SỬ & ĐỊA LÍ
 1. Năng lực nhận thức khoa học lịch sử và địa lí:
 - Kể, nêu, nhận biết được các hiện tượng địa lí, sự kiện lịch sử diễn ra trong 
cuộc sống theo mối quan hệ không gian - thời gian; một số giá trị, truyền thống kết 
nối con người Việt Nam; một số nền văn minh; một số vấn đề khó khăn mà nhân 
loại đang phải đối mặt. - Trình bày, mô tả được một số nét chính về lịch sử và địa lí của địa phương, 
vùng miền, đất nước, thế giới.
 - Nêu được cách thức con người khai thác, sử dụng và bảo vệ tự nhiên.
 2. Năng lực tìm hiểu lịch sử và địa lí:
 - Biết quan sát, tra cứu tài liệu để tìm thông tin hoặc thực hiện điều tra ở mức 
độ đơn giản để tìm hiểu về các sự kiện lịch sử và hiện tượng địa lí; biết đọc lược đồ, 
biểu đồ, bản đồ tự nhiên, dân cư,... ở mức đơn giản.
 - Từ những nguồn tư liệu, số liệu, biểu đồ, lược đồ, bản đồ,... nêu được nhận 
xét về đặc điểm và mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử và các đối tượng, hiện 
tượng địa lí.
 - Trình bày được ý kiến của mình về một số sự kiện, nhân vật lịch sử và hiện 
tượng địa lí,...
 - So sánh, nhận xét, phân biệt được sự đa dạng về tự nhiên, dân cư, lịch sử, 
văn hoá ở một số vùng miền; nhận xét được tác động của thiên nhiên đến hoạt động 
sản xuất của con người và tác động của con người đến tự nhiên.
 3. Năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học
 - Xác định được vị trí của một địa điểm, một phạm vi không gian trên bản đồ; 
sử dụng được đường thời gian để biểu diễn tiến trình phát triển của sự kiện, quá 
trình lịch sử.
 - Sử dụng được biểu đồ, số liệu,... để nhận xét về một số sự kiện lịch sử, hiện 
tượng địa lí.
 - Biết sưu tầm và sử dụng các nguồn tư liệu lịch sử và địa lí để thảo luận và 
trình bày quan điểm về một số vấn đề lịch sử, địa lí, xã hội đơn giản.
 - Vận dụng được kiến thức lịch sử và địa lí đã học để phân tích và nhận xét ở 
mức độ đơn giản tác động của một sự kiện, nhân vật lịch sử và hiện tượng địa lí,... 
đối với cuộc sống hiện tại.
 - Đề xuất được ý tưởng và thực hiện được một số hành động như: sử dụng tiết 
kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường 
 MÔN ĐẠO ĐỨC
 1. Năng lực điều chỉnh hành vi: 
 Nhận thức chuẩn mực hành vi; Đánh giá hành vi của bản thân và người khác; 
Điều chỉnh hành vi
 2. Năng lực phát triển bản thân: 
 Tự nhận thức bản thân; Lập kế hoạch phát triển bản thân; Thực hiện kế hoạch 
phát triển bản thân
 3. Năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế - xã hội: 
 Tìm hiểu các hiện tượng kinh tế - xã hội; Tham gia hoạt động kinh tế - xã hội
 C. KẾT LUẬN
 Khi đã xác định được cụ thể, chính xác các năng lực của các môn học, GV 
cần áp dụng xác định vào cụ thể từng bài để từ đó có sự điều chỉnh các hoạt động 
dạy học, từ nội dung đến phương pháp, hình thức tổ chức để đem lại hiệu quả trong từng tiết học góp phần giúp nâng cao chất lượng dạy học trong dạy học tiếp cần phát 
triển năng lực, phẩm chất HS.
 GV báo cáo
 Phan Thị Thanh Hòa

File đính kèm:

  • docchuyen_de_mot_so_bien_phap_xay_dung_ne_nep_tu_quan_cho_hoc_s.doc