Chuyên đề Bồi dưỡng thường xuyên hè 2014 sinh học THCS
Việc hình thành cho HS một thếgiới quan khoa học và niềm say mê
khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi mà
nền kinh tếtri thức đang dần dần chiếm ưu thếtại các quốc gia trên thếgiới.
"Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc
giảng dạy các kiến thức khoa học tựnhiên, đặc biệt là đối với môn Sinh học
ởTrung học cơsở, khi HS đang ởgiai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽcác
kiến thức khoa học vềsựsống, hình thành các khái niệm cơbản vềkhoa HS
học.
"Bàn tay nặn bột" là một phương pháp mới với tài liệu tham khảo còn
rất ít, gây trởngại lớn cho việc tham khảo của GV. Dựa trên các tài liệu của
BộGiáo dục và Đào tạo, và tình hình thực tếcủa Gia Lai, SởGiáo dục và
Đào tạo Gia Lai biên soạn cuốn sách này với mong muốn có một tài liệu
tham khảo, hướng dẫn thực hiện đơn giản, dễhiểu, gần với thực tiễn của Gia
Lai nhất.
ọc của GV không đạt). Các thí nghiệm được tiến hành lần lượt tương ứng với từng môđun kiến thức. Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng). GV lưu ý HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực hành. Phần ghi chép này GV để HS ghi chép tự do, không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp mới làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức tạp và nếu có điều kiện, GV nên thiết kế một mẫu sẵn để HS điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Ví dụ như các thí nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau… 19 Khi HS làm thí nghiệm, GV bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc HS nào làm sai theo yêu cầu thì GV chỉ nhắc nhỏ trong nhóm đó hoặc với riêng HS đó, không nên thông báo lớn tiếng chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các nhóm HS khác. GV chú ý yêu cầu HS thực hiện độc lập các thí nghiệm trong trường hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực hiện theo nhóm thì cũng yêu cầu tương tự như vậy. Thực hiện độc lập theo cá nhân hay nhóm để tránh việc HS nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi cho GV phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm nghiên cứu, đặc biệt là các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được kết quả thí nghiệm như ý. Bước 5: Kết luận và hệ thống hóa kiến thức Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (quan niệm ban đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức. Nếu có điều kiện, GV có thể in sẵn tờ rời tóm tắt kiến thức của bài học để phát cho HS dán vào vở thực hành hoặc tập hợp thành một tập riêng để tránh mất thời gian ghi chép. Vấn đề này hữu ích cho HS các lớp nhỏ tuổi ở tiểu học. Đối với các lớp trung học cơ sở thì GV nên tập làm quen cho các em tự ghi chép, chỉ in tờ rời nếu kiến thức phức tạp và dài. 4. Những điểm cần chú ý khi vận dụng phương pháp "bàn tay nặn bột" Bàn tay nặn bột khuyến cáo một tiến trình ưu tiên cho xây dựng những tri thức (hiểu biết, kiến thức) bằng khai thác, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ không phải phát biểu lại các kiến thức có sẵn xuất phát từ sự ghi nhớ thuần tuý. HS tự mình thực hiện các thí nghiệm, các suy nghĩ và thảo luận để hiểu được phần đóng góp của mình. HS học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động; HS học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi vấn; HS học tập bằng hỏi đáp với bạn kết đôi và với 20 bạn hiểu biết hơn, bằng cách trình bày quan điểm của mình, đối lập với quan điểm của bạn và về các kết quả thực nghiệm để kiểm tra sự đúng đắn và tính hiệu lực của nó. GV tuỳ theo tình hình, từ một câu hỏi của HS có thể đề xuất những tình huống cho phép tìm tòi một cách có lí lẽ; GV hướng dẫn HS chứ không làm thay; GV giúp đỡ HS làm sáng tỏ và thảo luận quan điểm của mình đồng thời chú ý tuân thủ việc nắm bắt ngôn ngữ; GV cho HS phát biểu những kết luận có ý nghĩa từ các kết quả thu được, đối chiếu chúng với các kiến thức khoa học; GV điều hành những tập luyện tiến bộ dần. Các buổi học ở lớp được tổ chức xung quanh các chủ đề thế nào để tiến trình có thể đồng thời giúp HS tiếp thu được kiến thức, hiểu được phương pháp tiến hành và nắm bắt được ngôn ngữ viết và nói. Một thời lượng đủ cần thiết cho mỗi chủ đề cho phép nắm bắt được, tái tạo được và tiếp thu một cách bền vững nội dung. Làm chủ ngôn ngữ Làm chủ được ngôn ngữ không chỉ là sự mong đợi của xã hội, của cha mẹ mà cũng là điều ưu tiên của nền Giáo dục quốc gia. Việc thực hành các hoạt động khoa học ở lớp góp phần cho công việc này. Trong bối cảnh đó HS có thể học cách tìm kiếm một từ, dạng động từ hay những dạng thức ngôn ngữ cho phép chúng trình bày tốt nhất những quan sát của mình. HS cũng học đọc hiểu, học xây dựng các biểu đồ, các bảng kết quả thu được, các sơ đồ,…(các dạng trình bày kết quả nghiên cứu khoa học) Trong bối cảnh thường là đa dạng, do xuất phát từ các hiện tượng tự nhiên và các quan sát chung của HS, hoạt động khoa học giúp HS vượt qua được những rào cản của ngôn ngữ và các quan niệm truyền thống khác. Nói Bàn tay nặn bột khuyến khích trao đổi bằng ngôn ngữ nói về những quan sát, những giả thuyết, những thí nghiệm và những giải thích. Một số trẻ có khó khăn về ngôn ngữ trong một số lĩnh vực nào đó đã phát biểu ý kiến một cách tự giác hơn khi các thao tác trong hoạt động khoa học bắt buộc chúng phải làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện tượng tự nhiên. Tính nghiêm ngặt của phát biểu khoa học, sự đòi hỏi khách quan hoá, hợp thức hoá có thể góp phần hình thành tư tưởng biết phê phán về những phát biểu phi khoa học. Sự tranh luận khoa học cũng có thể tạo thành kiểu tranh luận trong xã hội cả khi bản chất các kiểu tranh luận đó là khác nhau (đồng thuận khoa học không thể dựa trên bỏ phiếu – như trong các cuộc họp tập thể): HS học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung trong một khuôn khổ nhất định. Viết Văn phong (lối viết) là cách thức thể hiện ra ngoài những hoạt động suy nghĩ của mình. Nó cũng cho phép giữ lại dấu vết của các thông tin đã thu nhận được, tổng hợp và hình thức hoá để làm nảy sinh ý tưởng mới. Nó cũng làm 21 cho thông báo được dễ dàng tiếp nhận dưới dạng đồ thị vì thông tin đôi khi khó phát biểu và cho phép ghi lại các kết quả tranh luận. Chuyển từ nói sang viết Chuyển từ một cách thức thông báo này sang một cách thức khác là một giai đoạn quan trọng. Bàn tay nặn bột đề nghị giành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau. CÁC PHƯƠNG DIỆN KHÁC NHAU CỦA MỘT TIẾN TRÌNH TÌM TÒI NGHIÊN CỨU Tiến trình tìm tòi nghiên cứu tuân theo các nguyên tắc tính thống nhất và tính đa dạng 1. Nguyên tắc tính thống nhất: Tiến trình này gắn kết với quá trình đặt câu hỏi của học sinh về thế giới thực: hiện tượng hay sự vật, vô sinh hay hữu sinh, tự nhiên hay nhân tạo, Quá trình đặt câu hỏi /đặt vấn đề/ này dẫn đến việc lĩnh hội các kiến thức và kĩ năng, sau khi học sinh đã tìm tòi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 2. Nguyên tắc tính đa dạng: - Khai thác, thử và sai, thao tác thực nghiệm (ví dụ như dùng pin để làm sáng đèn, thử làm chìm một vật đang nổi,…). Kiểu hoạt động này nhằm giúp cho học sinh làm quen với hiện tượng, các sinh vật hay vật thể. - Thử nghiệm trực tiếp: thử nghiệm một giả thuyết bằng cách tạo ra một qui trình thực nghiệm thích hợp ( cách thức này đòi hỏi cao hơn cách thức trước) - Quan sát trực tiếp hay có sử dụng dụng cụ: Sự quan sát này được định hướng bởi cách đặt vấn đề chính xác, dẫn học sinh đến việc quan sát tập trung vào chính xác một yếu tố nhằm thử nghiệm một giả thuyết. - Mô hình hóa: tạo ra hay sử dụng một mô hình /maket/ để có thể hiểu được /hiện tượng/ (ví dụ để hiểu được sự thay đổi các pha của Mặt trăng) - Điều tra và tham quan: có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào. Có thể được tiến hành ngay trong giai đoạn đầu để làm quen với môi trường ở địa phương, thu thập các vật liệu, gợi ra các câu hỏi. Có thể thực hiện trong giai đoạn tìm tòi để thúc đẩy các nghiên cứu tìm kiếm. Cũng có thể được thực hiện trong giai đoạn cuối để đem lại ý nghĩa cho các kiến thức đã được hình thành trong lớp. Tìm kiếm tài liệu: cách thức này có thể thay thế cho việc thực nghiệm trực tiếp khi không thể tiến hành các thực nghiệm, hoặc có thể được dùng để thúc đẩy hoặc cũng có thể được dùng như phương tiện cuối cùng để đối chiếu kiến thức được xây dựng trong lớp với kiến thức đã được thiết lập/ trong sách. 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Georger Charpak (chủ biên) (Người dịch: Đinh Ngọc Lân), 1999, Bàn tay nặn bột - khoa học ở trường tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 2. Nguyễn Vinh Hiển, 2006, Hoạt động quan sát và thí nghiệm trong dạy và học Thực vật học ở Trung học cơ sở, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 3. Bùi Phương Nga (chủ biên), 2011, Học tích cực, Tài liệu tập huấn GV, Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. Ngô Văn Hưng (chủ biên), 2011, Vở bài tập sinh học 6, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 5. Ngô Văn Hưng – Trần Ngọc Oanh, 2011, Vở bài tập sinh học 7, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 6. Nguyễn Quang Vinh (Chủ biên), 2011, Vở bài tập sinh học 8, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 7. Ngô Văn Hưng – Vũ Đức Lưu – Nguyễn Văn Tư, 2011, Vở bài tập sinh học 9, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010. Sách giáo khoa Sinh học 6,7,8,9, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
File đính kèm:
- TAI LIEU BDTX SINH HOC THCS 2014.pdf