Chuyên đề Bồi dưỡng thường xuyên hè 2014 Mỹ thuật THCS
1. Bài học lý thuyết
- Sơqua luật xa gần
- Phương pháp vẽtheo mẫu gồm có:
+ Phương pháp vẽhình
+ Phương pháp vẽ đậm nhạt, vẽmàu.
- Tỉlệngười gồm có:
+ Tỉlệkhuôn mặt
+ Tỉlệcơthể
- Ký họa và phương pháp ký họa.
ọc sinh kĩ năng thể hiện khó đạt kết quả tốt. Thông qua việc tổ chức và minh họa của GV còn giúp học sinh có khả năng thể hiện bài vẽ theo mẫu của mình một cách tốt nhất làm cho bài vẽ phong phú về nội dung và hình thức thể hiện. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số vấn đề cần thiết dạy học vẽ theo mẫu ở trường THCS. 2.1.1. Khái niệm vẽ theo mẫu Vẽ theo mẫu là người vẽ nghiên cứu mẫu đã trình bày sẵn, tìm cách để vẽ cho đúng, cho giống mẫu về dáng vẻ, hình khối, đậm nhạt, màu sắc và có không gian như nó vốn có ở trước mắt theo cách suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình. Những cảnh vật có thực ta nhớ lại để vẽ thì không gọi là vẽ theo mẫu mà gọi là vẽ theo trí nhớ. Chất liệu thông thường người vẽ hay sử dụng để vẽ theo mẫu là: chì đen, chì than, than thỏi, màu bột, màu dầu... Phân môn này có nhiều tên gọi khác nhau: ở các trường phổ thông, các trường không chuyên thường gọi là: Vẽ tả thực, vẽ tả sống (trước đây), vẽ theo mẫu (bây giờ - và cũng là tên gọi thống nhất chung), ở các trường chuyên nghiệp gọi là hình họa (vẽ hình). Vẽ theo mẫu thực chất là hình hoạ. Từ xa xưa, khi con người chưa có tiếng nói và chữ viết thì hình hoạ đã được sử dụng như một phương tiện 18 "ngôn ngữ" chung của các dân tộc. Họ vẽ hình để biểu thị ý muốn, để trao đổi tình cảm giữa con người với nhau trong sinh hoạt, trong lao động, trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Ngày nay, hình họa giữ một vị trí quan trọng trong nghệ thuật tạo hình nói chung và trong hội hoạ nói riêng. Vì vậy, hình hoạ là một phân môn cơ bản nhất của ngành mỹ thuật, là môn học cơ sở của hội hoạ. Hình hoạ có tính chất quyết định nhất trong việc bổ sung cho các loại hình nghệ thuật khác như: điêu khắc, trang trí… Phân môn vẽ theo mẫu (hình hoạ) nhằm rèn luyện nâng cao năng lực quan sát nhận xét các vật mẫu, luyện tay vẽ thành thạo, chính xác, có khả năng biểu hiện được hình dáng, tỉ lệ, độ đậm nhạt và màu sắc của các khối hình trong không gian (như hình mẫu ở trước mắt). - Vẽ theo mẫu sẽ hình thành thị hiếu thẩm mỹ tốt, phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ xảo thể hiện đối tượng, đồng thời rèn luyện phương pháp làm việc khoa học. - Vẽ theo mẫu giúp nhận thức nhanh dáng vẻ của các đối tượng, hình thành nên tình cảm yêu quý thiên nhiên, yêu quý người lao động và thành phẩm lao động do con người làm ra. - Đối với hội họa, điêu khắc và kiến trúc, hình họa luôn là cánh cửa đầu tiên để người học nghiên cứu và khám phá, luôn có mặt và tác động tích cực đến các môn học khác của chuyên ngành. Thực tế cho thấy, các họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam và trên thế giới, dù ở thời đại nào cũng đều có trình độ vẽ hình họa rất tốt. 2.1.2. Một số kiến thức cơ bản về vẽ theo mẫu Để thực hiện những yêu cầu vẽ theo mẫu chúng ta cần hiểu một số khái niệm cơ bản thông thường của ngôn ngữ hội hoạ như: đường nét, hình khối, đậm nhạt, sáng tối, màu sắc, bố cục… 2.1.2.1. Đường nét Đường nét do con người sáng tạo nên để biểu hiện một hình ảnh, một cảnh vật của giới tự nhiên. Nó còn là những ký hiệu, những quy ước của con người để biểu hiện hình khối của mọi vật. Nét còn gọi là đường viền hay đường chu vi, là ranh giới giữa vật này với vật khác hay giữa một vật với không gian xung quanh. Định nghĩa một cách khoa học thì đường nét là tập hợp của những điểm chuyển động ; trong hội họa khái niệm “đường” và “nét” thường cùng song hành, muốn tạo nét phải có đường và đường làm nên nét Thông thường, để diễn tả mọi vật người ta thường hay sử dụng mấy loại đường nét chính như: nét thẳng, nét cong, nét gấp khúc. Chỉ dùng mấy loại nét này tìm cách thể hiện nó lúc nét nhỏ, lúc nét to, nét đậm, nét nhạt, nét dài, nét ngắn... là có thể vẽ được tất cả mọi thứ ta muốn. Sử dụng đường nét hợp lý, hiểu được vị trí vai trò của chúng trong học tập và sáng tác hội họa, đồ họa là yêu cầu cơ bản của dạy và học mỹ thuật. Ngay từ các lớp học đầu tiên, học sinh tiểu học đã được làm quen với nét 19 thẳng, nét cong, nét thanh, nét đậm…và vai trò của chúng, mỗi nét đều có các đặc tính biểu cảm khác nhau. Nhiều nhà chuyên môn đã cho đường nét có những ý nghĩa như sau: - Đường thẳng nằm là mô tả sự yên tĩnh, phẳng lặng. - Đường nét cong biểu hiện sự mềm mại, uyển chuyển. - Đường nét gấp khúc biểu hiện sự cứng rắn không ổn định. 2.1.2.2. Hình khối Hình là hiệu quả thụ cảm của thị giác đối với vật thể trong không gian do tác động của ánh sáng. Điều kiện để có hình là ánh sáng, đó là: ánh sáng, vật thể và thị giác. Trên cơ sở đó họa sĩ dùng các yếu tố đường nét đậm nhạt, mảng để có thể tạo ra hình thể trên mặt phẳng tranh. Một vật thể cần phải có hình dáng nhất định và chiếm một thể tích nào đó trong không gian. Đó là hai đặc điểm: hình và khối của vật thể. Hình là đường viền của một vật thể được diễn trên mặt phẳng. Khối là biểu hiện thể tích, không gian. Khối và không gian ở đây là yếu tố ảo do đậm nhạt tạo ra trên mặt phẳng. Nó được thị giác tiếp nhận. Vì vậy, nghệ thuật có những lúc rất giống thực song cũng có lúc không giống thực và trong nghệ thuật hội họa, hình ảnh trên tranh chỉ là những hệ thống qui ước mà thôi. 2.1.2.3. Màu sắc Màu sắc cũng là một đặc trưng của ngôn ngữ hội họa, góp phần tạo nên bức tranh đẹp và lộng lẫy. Màu sắc còn đem lại cho người xem sự lạc quan yêu đời, niềm vui sướng hứng khởi. Ngược lại, nó cũng đem lại cho người xem sự sợ hãi, buồn bã hay chán nản. Màu sắc là tên gọi chung. Khi các màu sắc được pha trộn với nhau tạo ra những sắc loại, sắc thái, sắc độ. Sắc loại là hỗn hợp của nhiều màu thể hiện dưới dạng riêng biệt. Sắc loại được gọi bằng tên gây liên tưởng tới các màu tự thân như màu da cam, màu cỏ úa, màu da bò, màu nõn chuối…Sắc thái là sự khác nhau về chất của một màu cùng gốc: như màu xanh biếc, màu xanh lá cây, màu xanh cẩm thạch, màu xanh sẫm… Tuy vậy, trong nghệ thuật hội họa, quan trọng nhất vẫn là tương quan màu sắc. Màu xanh tương quan màu nóng thì lạnh, nhưng đặt nhiều màu lạnh cạnh nhau thì màu xanh này lạnh hơn màu xanh kia… hay màu đỏ nóng hơn màu hồng…Màu sắc có tiếng nói mạnh mẽ, giúp họa sĩ thể hiện ý đồ, chủ đề của mình rõ ràng hơn. Nếu cùng một chủ đề, cùng một bố cục nhưng vẽ hai gam màu khác nhau sẽ cho hiệu quả khác nhau 2.1.2.4. Bố cục Bố cục là cách sắp xếp đường nét, màu sắc, hình khối, đậm nhạt… trong một diện tích nhất định sao cho hài hòa, cân đối và đẹp mắt. Đường nét, hình khối và màu sắc là những thuộc tính vốn có của sự vật ở trạng thái tự nhiên, trong từng hình thì có thể hoàn chỉnh theo ý đồ của tạo hóa, nhưng 20 quan sát nó ở những góc nhìn và đặt trong những không gian khác nhau thì luôn cho những cảm thụ nghệ thuật khác nhau. Vì vậy, khi vẽ cần phải sắp xếp lại để khi tái hiện thì cho hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Họa sĩ dù vẽ trực họa hay vẽ nhập tâm thì vẫn làm cho hình ảnh chỉ tái hiện theo cảm thụ nghệ thuật riêng, cường điệu những gì cần nhấn mạnh, khám phá những gì sâu lắng ở bên trong. Lại còn tương quan giữa các hình và các mảng màu không thể để nó tự nhiên mà với thiên chức sáng tạo, họa sĩ phải biết nhào nặn để nó vượt khỏi trạng thái tự nhiên mang lại một ý nghĩa nhân sinh làm cho tác phẩm dẹp và có giá trị nghệ thuật hơn. 2.1.3. Cách nhìn, phân tích, đánh giá các bài vẽ theo mẫu của học sinh THCS Đối với học sinh THCS, việc vẽ theo mẫu thông thường bước đầu các em hoàn toàn phụ thuộc vào cách tổ chức, hướng dẫn mọi hoạt động trong quá trình vẽ theo mẫu như (chọn mẫu, đặt mẫu, cách dùng que đo, cách dùng chì…). Chính vì vậy, việc dạy-học phân môn Vẽ theo mẫu cần phải khoa học và hợp lý thì giờ học mới đạt kết quả tốt. Theo tôi tìm hiểu phần lớn giờ học vẽ theo mẫu GV ít hướng dẫn cho học sinh dùng que đo mà các em chỉ ước lượt bằng mắt hoặc cho học sinh nhìn sách chép lại các bài học vẽ theo mẫu… Những hình thức trên hoàn toàn không phù hợp với việc dạy-học phân môn Vẽ theo mẫu. Thông qua đó làm cho các em lười suy nghĩ đồng thời hạn chế tính sáng tạo, kỹ năng thể hiện trong quá trình vẽ. Khi phân tích, đánh giá bài vẽ theo mẫu của học sinhTHCS, điều cần thiết là phải hiểu được tâm lý và đặc thù ngôn ngữ tạo hình của các em qua từng giai đoạn. Tranh của các em thường vẽ theo cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm thụ của mình và vẽ những gì mà chúng thích, chúng quan xác, nhận xét và cảm thụ được. Các hình vẽ thường ngộ nghĩnh dí dỏm, màu sắc tươi sáng rực rỡ, cách biểu đạt ngây thơ tinh nghịch, đường nét vụng về, cấu trúc chưa được chính xác, hình khối không theo qqui định cụ thể... Qua các giai đoạn, người giáo viên cần hiểu rõ các đặc điểm như: các em còn thiếu nhiều thông tin, những gì tiếp cận được thường tản mạn, quan sát một cách khái quát, dễ quên. Những gì nhìn thấy thường muốn thể hiện lên tranh tất cả. Không thích vẽ đơn giản nhưng cũng không thích vẽ lặp lại, những gì các em vẽ nhiều khi như vô lý nhưng lại có lý, vì thể hiện đối tượng một cách tự nhiên. Cho nên, GV cần phải hiểu rõ khả năng phát triển ngôn ngữ tạo hình và tâm lý của các em để nhận biết các đặc thù đúng theo từng thời kỳ phát triển. Khi đó mới đánh giá đúng sự thể hiện ngôn ngữ tạo hình qua tranh vẽ. Hơn nữa, khả năng tạo hình của các em học sinh THCS cũng không đồng đều, sự phát triển ngôn ngữ tạo hình còn chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh cũng như cách nghĩ và khả năng thể hiện theo từng thời kỳ phát triển của trẻ. 21 Khi phân tích tranh của học sinh THCS cần đặc biệt chú ý: không thể áp đặt tranh của các em như cách thể hiện tác phẩm của các họa sỹ để phân tích như nhau. Đó là một vấn đề phi khoa học và thiếu tính thực tiễn. 2.1.4. Cách tổ chức một giờ dạy-học vẽ theo mẫu ở trường THCS 2.1.4.1. Chọn mẫu vẽ Việc chọn mẫu vẽ để thực hiện bài vẽ theo mẫu là bước khởi đầu rất cần thiết mà GV cần phải quan tâm, bởi vì khi vẽ theo mẫu tùy theo đối tượng và tùy theo nội dung bài học mà giáo viên chọn mẫu vẽ sao cho thích hợp. Mẫu vẽ cần phải chọn từ đơn giản đến phức tạp, mẫu
File đính kèm:
- TAI LIEU BDTX MI THUAT THCS 2014.pdf