Tiểu luận Triết học phật giáo ấn độ và ảh hưởng của nó đến văn hoá - Xã hội Việt Nam

Từ xưa tới nay có rất nhiều trường phái triết học du nhập vào Việt Nam nước Ta nó đã có ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống nhân dân cũng như sự phát triển của đất nước, sau đây em xin trình bày về những ảnh hưởng của triết học Ấn Độ mà chủ yếu là trường phái triết học Phật Giáo nó đã được du nhập vào việt nam như thế nào và những ảnh hưởng của nó ra sao.

Trước tiên ta nói một đôi dòng về triết học phật giáo của Ấn Độ.

Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy – Mã - Lạp – Sơn kéo dài trên hai ngàn km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là nhân tố kinh tế – xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là “Công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh tế điển hình là chủ nghĩa Mác coi là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô (nô lệ). Thêm vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú về các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp v.v

 

doc21 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Triết học phật giáo ấn độ và ảh hưởng của nó đến văn hoá - Xã hội Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta khoảng năm 255 – 256.
Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người Việt trở thành trí thức, chính quyền đô hộ Hán - Đường đã gián tiếp hun đúc các thiền sư Việt Nam ý thức về một nền độc lập dân tộc. Những nhà sư Phật giáo dã là tầng lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập đầu tiên như các nhà tiền Lê - Lý – Trần.
Le Đại Hành khi lên ngôi Vua đã mời Thiền sư Pháp Thuận và Thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi vào triều đình làm cố vấn chính trị. Thiền sư Vạn Hạnh là người huyền thoại hoá Lý Công Uốn và đưa ông lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của thời Lý. Lý công Uốn là con nhà sư Lý khánh Vân, ra dời trong một chuyến lên chùa của mẹ ông. Lý Công Uẩn học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh đã tuyên truyền cho ông, đã khen ông sẽ làm bậc minh chủ. Các tư liệu dù đã thuyền hoại hoá nhung vẫn thấy Lý Công Uốn xuất thân đào tạo trong Phật giáo đưa lên ngôi báu.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốc giáo. Thời Ly Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.
Nhà nước Ly ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng nho giáo thời Ly Trần có xu hướng phát triển ngược lại với Phật giáo, Nho giáo đã đào tạo một tầng lớp trí thức để làm quan. Nho giáo từ chỗ lúc đầu mới chỉ được nhà nước phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc như một học thuyết để trị nước tới chỗ sau đó (cuối thời Trần) đã trở thành một ý thức hệ trên đà thống trị xã hội.
Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương thức giao lưu văn hoá cưỡng chế. Vì vậy, sau hơn 1.000 năm đô hộ của chính quyền phương Bắc, Nho giáo cũng chỉ là một lớp váng mỏng đọng lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng rất nhỏ bé. Đến thời Ly Trần, nho giáo trở thành một nhu cầu tư tưởng thiêt yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền, cũnh như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lươc là chế độ khoa cử. Do vậy các nhà vua sùng Phật vẫn cần đến một sự bộ trợ của Nho giáo. Thời Ly-Trần Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái Tử học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, năm 1076 mở trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1086 triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hải, Nguyễn Trung Ngạn Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ dùng cho tầng lớp quý tộc tông thất. Đoàn Nhữ Hải từ một nho sinh được thăng đến chức Hành khiển là một ví dụ tiêu biểu.
Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.
2.Đóng góp của phât giáo về mặt văn tự.
Như trên đã đề cập các nhà sư Â’n Độ và Trung Quốc đến Việt Nam và dịch kinh sách bằng văn tự Hán và ngôn ngữ, văn tự đó được dùng để truyền bá Phật giáo.
Một vấn đè được đặt ra là trước thế kỷ thứ VI Phật giáo hoạt động ở trung tâm Dâu bằng ngôn ngữ và văn tự nào?
Chúng ta biết rằng miền trung và miền Nam nước Việt, vào thời diểm đó nơi này là các vương quốc Chămpa và Phù Nam. Các thương nhân và nhà truyền giáo Â’n Độ đều đã đến đây có thể cùng một lúc hay sơm hơn thời gian họ đến Dâu. Nhứng nhà truyền giáo đó đã dùng ngôn ngữ và văn tự nào để truyền giáo? Câu trả lời rõ ràng và cụ thể là: văn tự sanscrit. Bi kí và minh văn thuộc niên đại khoảng đầu Công Nguyên đã được phát hiện trước năm 1945 và hiện nay vẫn còn đang được phát hiện chứng minh diều đó một cách hùng hồn. Như vậy là do người truyền giáo Â’n Độ không gặp ở nam Đại Việt lúc bấy giờ một văn tự nào sẵn có để họ sử dụng, vì vậy họ sử dụng văn tự sanscrit để truyền giáo. Còn ngôn ngữ thì đã có sẵn cho nên chẳng bao lâu sau thì xuất hiện chữ Chăm, chữ Khmer trên cơ sở chữ sanscrit.
Còn ở phía bắc thì cho đến nay không còn tìm thấy dấu vết chữ sanscrit thời đó. Để giải thích hiện tượng này chúng ta nhìn lại lên phía bắc. Khi những nhà truyền giáo Tây Vực hay Â’n Độ đến kinh đô Trung Quốc thời Hán thì họ đều dịch kinh bằng cách này hay cách khác. Hoặc họ đọc các kinh bản qua người Trung Quốc biết ngoại ngữ phiên dịch, hoặc tự tay họ dịch sau khi họ học chữ và tiếng Trung Quốc. Cho nên ở Trung Quốc không hình thành một dạng văn tự sanscrit mà trái lại hình thành một loại văn tự sanscrit chữ Hán, tức là chữ ngang thì chuyển thành chữ ô vuông nghĩa là bị cắt ra từng đoạn hình thành chữ Phạm – Hán mà ngay nay chúng ta vẫn thấy đề trên cổng chùa hay khắc trên chuông và ghi trên kinh chữ Hán thường ở phần chú(thần chú).
Như vậy, nếu Phật giáo Â’n Độ truyền đến một khu vực chưa có văn tự Â’n Độ sẽ địa phương hoá sản sinh ra một văn tự địa phương thuộc hệ văn tự Â’n Độ. Nếu đến nơi đã có văn tự thì nó biến dạng thành một chủng loại mà tính trội thuộc về văn tự bản địa.
Nói một cách cụ thể hơn, Nam Đại Việt đã thừa hưởng của Bàlamôn giáo loại văn tự mà họ chưa có, nghĩa là bàlamôn giáo, phật giáo đem đến cho cư dân đó một loại văn tự. Đó là một cống hiến của Bàlamôn giáo và Phật giáo đối với miền nam nước ta. Còn bắc Đại Việt thì người truyền giáo Â’n Độ đã gặp ở đây một văn tự ngoại quốc nhưng quan phương, cho nên họ dùng loại văn tự đó – văn tự Hán. Nhưng cũng không phải họ không có cống hiến gì. Có hai cống hiến, sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ Hán đã đưa đến sự hình thành chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm đã hình thành trước thế kỷ V – VI. Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng nghĩa: Bụt – Chùa – Thầy và Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nôm, nhóm thứ hai là chữ Hán đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là âm Hán – Việt chứ không phải là âm Hán của chữ Việt. Chữ Nôm xuát hiện trong bộ thuạt ngữ Phật giáo này sẽ không bao giờ sản sinh và tồn tại được nếu như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được dùng từ đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật giáo. Nhưng bởi vì trước thế kỷ V – VI, Phật giáo Trung Quốc chưa hình thành. Công việc Phật giáo ở Trung Quốc chủ yếu vẫn do các nhà sư Tây Vực đảm nhiệm. Trong khi đó ở Dâu đã hình thành một trung tâm Phật giáo độc lập đối với Phật giáo Trung Quốc lúc bấy giờ con loanh quanh ở phương bắc xung quanh triều đình chưa lan xuống vùng Giang Đông, tức miền Nam. Sau này Phật giáo Trung Quốc vẫn hình thành Bắc tông và Nam tông là có lý do lịch sử của nó. Chỉ đến khoảng thế kỷ V – VI, một mặt Phật giáo Trung Quốc đã hình thành những Tông phái Trung Quốc như Thiên Thai, Pháp Tướng.Một mặt con đường thỉnh kinh cũng chuyển sang phương nam. Các nhà sư Trung Quốc xuống giao Châu đi đường thuỷ qua Â’n Độ. Nhà sư hành hương nổi tiếng là Nghĩa Tịnh đã đi theo con đường này, cũng có một số nhà sư người Việt như Khuy Sung, Đại Thặng Đăng đã học giỏi tiếng Phạm và hoặc đi một mình hoặc đi cùng các nhà sư Trung Quốc sang Â’n Độ. Những nhà sư này đều không có tên trong Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục. Tất cả điều đó chứng tỏ có một cơ tầng Phật giáo Việt ấn tồn tại trước sau đó rồi mới đến thượng tầng Việt Trung, bắt đầu từ khoảng thế kỷ V – VI về sau và rõ net với Ngô Ngôn Thông (đến Kiến Sơ làng Phù Đổng năm 820) thì Phật giáo Trung Quốc mới chiếm thượng phong. Cho nên, trong thời kỳ trước mới hình thành và tồn tại các thuật ngữ Phật giấo Â’n Độ, Bụt – Chùa – Thầy được hình thành như vậy. Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo âm Hán Việt là Phật – Sư - Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi thầy chùa hơn là Sư ông. Chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nôm ở bắc Đại Việt, chữ Chăm, chữ khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn ngôn ngữ Việt Chăm, Khmer.
3.Phật giáo ảnh hưởng đên một nền kiến trúc chùa, tháp phong phú.
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn minh.
Khởi thuỷ nơi trú ẩn đầu tiên của con người là ngôi nhà tự nhiên. Đó chính là những hang động những vòm đá. Tuy nhiên ngôi nhà tự nhiên này không thể che chở an toàn cho con người với bao như thứ hiểm hoạ chết chóc. Nào mưa gió sâm sét, nào hổ báo, răn rết tất cả đều là những mối nguy hiển đối với cuộc sống con người. Bản thân con người là một miếng mồi ngon đối với những ác thú trong tự nhiên. Con người là một con mồi yếu đuối nhất nhưng lại là con mồi có trí khôn. Một sự miêu tả cực kỳ sinh động về trí khôn của con người trong cổ tích Việt Nam – chuyện Trí khôn của ta đây – giữa con hổ và con người. Đây thực sự là một minh họa xuất sắc nhất cho sự khác biệt cơ bản giữa con người và động vật.
Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống, con người phải làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người Việt làm nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay nhà đất thì cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt vẫn còn tồn tại như nguyên mẫu xa xưa. Đó là một ngôi nhà hình chữ nhật thông thường chia làm 3 gian với chiều dài từ 6 – 10 mét, đôi khi có nối các chái. Đó là những ngôi nhà tranh lè tè mái rạ vàng rộm. Những ngôi nhà nông thôn có một mầu như vậy. Đền thờ nhà là gốc đa, và về sau đã có nghè thì cũng chỉ là ngôi nhà hai ba gian đơn sơ như nhà ở. Thế nhưng, một khi Phật giáo du nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp.
Cho 

File đính kèm:

  • docT057.Doc