Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

 Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ nhữnh cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan. do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.

 Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu ttranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.

 Trong thời kỳ chuyền nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch tập chung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướnh Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ chương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẩn giữa các vấn đề nẩy sinh, nhưng những mâu thuẫn đó lại đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác, về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của kinh tế thị trường.
Trên con đường CNH - HĐH, việc chúng ta bắt đầu sử dụng thị trường như một công cụ,một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, đã đem lại những kết quả tích cực về cả phương diện, thực tiễn lẫn phương diện nhận thức.
Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới cho chúng ta là, sản xuất hàng hoá cùng với “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường” hiện nay đã được chúng ta hiểu là không mâu thuẫn với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài. Kinh tế thị trường rõ ràng là khách quan là tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một mặt là nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế buộc phải tự khẳng định mình - vai trò của mình trong thị trường.
 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta :
	 +) một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về qua hệ giữa kinh tế và chính trị :
 Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loại người không phải báo về cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp , các lực lượng xã hội nhằm giành và giữ chình quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ dể xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đềm chính trị ra đời hoàn toàn lad do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phưưong tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrich cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khẳng định”bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích”. Trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điểnĐức”, F.Engen đã chỉ rõ” để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần.
	Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế đọ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen, “bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quoanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lenin đã khẳng định” chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”Khẳng định đó của Lenin không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tế đối voứi chính trị, mà muôns nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quết theo một lập trường chinhs trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. V.I>Lenin còn khẳng định “không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững đuực sự thống trị của mình và do đó cúng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vục sản xuất “. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu câùphát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
	Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991). Đảng ta đã khẳng định:
	“Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cuả CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mởi trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm chễ đổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữ Đảng và Nhà nước và cá đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế , xã hội và thực hiện dân chủ.” Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định răng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiền hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
	Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cáh rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 7 năm 1996) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế vưới đổi mới chính trị. Đây là một bài học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chú nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta.
	Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một ngịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học.
	ổn định về chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình; Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công CNXH.
	Thực tiẽn trên thế giới chó thây, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng khẳng định điều đó. Những thành từu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị.
	ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhừ đó mới giữ vững ổn định về chịnh trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tuỳ tiện mà theo một định hướng nhất định. Đó là chuyển từ nền kinh tế kấ hoạch hoá tập trung sang “nền kinh tế nhiều thành phàn, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” hay nói ngăn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, và đó cũng là cơ sở để giứ vững ổn định về chính trị.
	Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đổi lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới, và đổi mới là điều kiện để ổn định, Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
	Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
	Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm của 10 năm đổi mới vừa qua là kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủa nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Viêt Nam. Khía quát đó hoàn toàn khoa học và có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
 +) Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quân hệ sản xuất:
	Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác - Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản

File đính kèm:

  • docT053.doc
Giáo án liên quan