Tiểu luận Đào tạo nguồn lực con người và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước

 Con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội. Vì vậy muốn phát huy được yếu tố con người cần phải có môi trường thuận lợi. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên và chủ yếu là xoá bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt.

 Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là người tài. Đây là điều kiện quan trọng, trước hết nguồn nhân lực đào tạo tốt có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với nguyên tắc phân phôí theo lao động đảm bảo công bằng trong kinh tế.

 

doc12 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 2061 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đào tạo nguồn lực con người và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à có tính lịch sử cụ thể. Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
II. Vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp Phát triển kinh doanh xã hội ở nước ta
1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp hóa hiện đại hóa của đại hội Đảng lần thứ VII rút ra từ thực tiễn công nghiệp hóa trên thế giới và ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao.
2. Nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
 Đối với đất nước ta khi chiến lược phát triển đất được xác định là “đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng minh”, thì vấn đề xác định dúng và huy động có hiệu quả những nguồn lực vốn có và có thể tạo ra trong tiến trình phát triển càng trở nên quan trọng.
 Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là : nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiện nhiên , vị trí địa lý), cơ sở vật chất tiềm lực khoa học-kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiệm quản lý.
 Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển của con người, do con người ,vì con người. Con người làm ra lịch sử của chính mình và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh hằng đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-LêNin đã đồng thời chỉ rõ, xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất do con người và những công cụ sản xuất, bao gồm con người và những công cụ sản xuất do con người tạo ra. 
 Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của xã hội qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính con người và quyết định quan hệ của con người với con người trong sản xuất.
 Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam. ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh của nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục đào tạo đóng vai trò quyết định hàng đầu.
3-Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
 Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối ngiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao độngvà giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó, khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung cầu về số lượng nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cảI thiện nhiều nhưng cung về chất lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực, trí lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam. 
 Chất lượng thì như vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở các vùng này. Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn thì lại ngày càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. 
 Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực hạc tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có của nước ta.
 Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
3-Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
 Do một trong ba mặt thể hiện vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân là: hoạtđộng sản xuất ra của cải vật chất vật chất của quần chúng nhân dân, trực tiếp là nhân dân lao động, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Do nội dung cơ bản của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là: 
 Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền kinh tế quốc dân. Nội dung này được thể hiện qua hai cách: 
 Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tự trang bị. 
 Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thực hiện thông qua nhân chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến .
 Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội. 
 Muốn rõ thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để phát huy những đIểm mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm yếu và đưa ra được những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguoòn nhân lực. Một mặt phải trực tiếp giải quyết vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật và đồng thời phải giải quyết vấn đề nâng cao thể lực người lao động và số lượng nguồn nhân lực. Trong trình tự giải quyết vừa phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các bậc cao hơn nhưng phải kết hợp tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng cao, số lượng không lớn nhưng phải đạt các tiêu chuẩn của lao động kỹ thuật khu vực và thế giới, đáp ứng những ngành công nghiệp mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
 Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Những cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kịp được tốc độ gia tăng dân số. 
 Quy mô mọi ngành học, bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung, số học sinh và số trường, lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều tăng. Riêng đối với hệ thống đào tạo nghề thì quy mô vủa hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm và dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và gần 1000 cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thụcQuy mô đào tạo có chuyển biến nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn.
 Phải khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng cả về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục học, theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển đón bắt, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, những bất cập giữa các loại ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không ít cho sự phát triển. Một số ngành thì được học sinh, sinh viên theo học. Nếu không có sự đIều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp phải khó khăn về đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất là của Thái Lan. 
 Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng sâu kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa.Vì vậy, vấn đề khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn, vấn đề thực hiện công bằng xã hội cũng trở nên phức tạp hơn. Muốn nâng cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, chính sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó là điều kiện cơ bản đầu tiên tạo cơ hội được giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.
 Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực có đáp ứng được yêu cầu phát triển hay không đó là đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng thêm khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó nảy sinh yêu cầu về trình độ công nghệ và trình độ sử dụng các công nghệ đó cũng ngày càng phải được nâng cao. Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý đén khâu thực hành, ứng dụng, giáo dục kỹ thuật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng thích ứng của người lao động với những đặc đIểm của nền kinh tế thị trường. Kết hợp với các cấn đề giáo dục đó là giáo dục liên quan đến dân số, sức khoẻ, giới tính để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục.
 Trong điều kiện 

File đính kèm:

  • docT123.doc