Tiểu luận Cách mạng khoa học - Công nghệ - vấn đề có tính chất thời đại

Tóm lại ! KHCN có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay, KHCN càng thể hiện rõ vai trò của nó đối với Việt Nam như: Cấu trúc lại nền kinh tế, thay đổi và chuyển hướng các cơ sở hạ tầng của sản xuất, tăng cường các xu thế toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng của đất nước. Việt Nam chúng ta còn nghèo KHKT còn lạc hậu, thô sơ nên cần áp dụng các thành tựu KHCN mà nhân loại tạo ra. Ngoài ra, chúng ta còn phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, tìm tòi. để cho ra những phát minh khoa học của riêng mình.

Nhà nước ta cần có những chính sách ưu tiên, khuyến khích để phát triển KHCN: Đào tạo những cán bộ có chuyên môn cao về KHKT, ưu đãi những nhà khoa học có tài tạo điều kiện cho họ có khả năng phát triển hết khả năng của mình, nâng cao cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học, tăng cường hợp tác với các Viện nghiên cứu trên thế giới.

Với thế hệ sinh viên trẻ - Lực lượng nòng cốt của sự nghiệp CNH - HĐH ngày nay, mỗi chúng ta cần phải tự mình trau dồi thêm kiến thức về KHCN nói riêng và về mọi mặt nói chung không chỉ trong trường học mà còn cả trong thực tiễn cuộc sống để có thể đưa nước ta vững bước đi lên con đường XHCN đúng như mong muốn của Bác Hồ vĩ đại "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không chính nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu".

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Cách mạng khoa học - Công nghệ - vấn đề có tính chất thời đại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phận mấu chốt của công nghệ tin học ngày nay. Thông tin là hệ thống thần kinh của XH hiện đại, không có sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ không thể có sự truyền bá và sử dụng hàng ngàn hàng vạn thông tin trong XH hiện đại.
Sự phát triển của công nghệ thông tin được đo bằng chỉ tiêu: Tỷ số giá cả/ Hiệu suất. ở các OECD, người ta ước tính đã thu được 20% lợi nhuận từ công nghệ thông tin. Trong 10 năm tới, giá cả của công nghệ thông tin sẽ giảm nhanh và hiệu quả của thông tin sẽ càng lớn hơn. Tại Mỹ, nước chiếm 20% thị trường sản phẩm công nghệ thông tin thế giới đang bùng nổ cuộc cách mạng thông tin. Một số công ty lớn đang thử nghiệm việc xây dựng "Hệ thống thông tin cao cấp". Đây là hệ thống liên kết giữa máy điện thoại + Máy thu hình + Máy vi tính cho phép truyền thông 2 chiều và đa chiều, làm cho việc truyền tin và lưu tin được nhanh chóng, tự do hơn. Cuộc cách mạng về thông tin đang làm cho nhiều ngành công nghiệp phát triển vượt bậc, trong đó đặc biệt là ngành vật liệu mới.
2.2.3. Công nghệ vật liệu mới.
Công nghệ vật liệu mới là công nghệ thông qua phương pháp khoa học để chế tạo ra các vật liệu thay thế cho vật liệu thiên nhiên. Sự xuất hiện của các lọai vật liệu mới không những giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào tài nguyên thiên nhiên, mà còn làm cho sự nghiên cứu chế tạo và phát triển các loại sản phẩm có trình độ KHKT cao trở thành hiện thực. Trong các loại kỹ thuật vật liệu mới, hiện nay những thứ phát triển nhanh nhất và có triển vọng nhất là vật liệu cho thông tin, vật liệu tổng hợp và nguyên liệu năng lượng mới... Trong những kỹ thuật vật liệu mới, đáng chú ý nhất là vật liệu năng lượng mới là cơ sở quan trọng để phát triển kỹ thuật năng lượng mới. 
Trong thời gian tới, nhu cầu của vật liệu mới sẽ tăng nhanh hơn nhiều so với các vật liệu truyền thống. Trong thời kỳ 1986 - 2000 các vật liệu siêu dẫn sẽ tăng 32%, Gali tăng 10,1% gồm cấu trúc định sẵn tăng 30% trong khi bạc chỉ tẳng 0,8%, thiếc 1,2%. nhu cầu vật liệu mới của Mỹ sẽ tăng từ 243 tỷ đô la (1970) lên 379 tỷ đô la (2000). Nhật Bản do phụ thuộc nặng vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài, từ lâu đã tích cực phát triển công nghệ vật liệu mới. Thị trường vật liệu của Nhật Bản dự tính tăng từ 2,2 tỷ đô la (1981) lên 24 tỷ đô la (2000).
2.2.4. Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là một bộ môn khoa học mới nổi lên từ những năm 50 của thế kỷ này. Nó là sản phẩm kết hợp của khoa học về sự sống và KHKT hiện đại. Công nghệ sinh học đang được nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ yếu là gen, dung học tế bào, môi tế bào, phản ứng sinh vật và công nghệ gây men... Công nghệ sinh học tuy hiện nay mới ở giai đoạn đầu nhưng nó đã có những bước tiến, bắt đầu có tác dụng và ảnh hưởng đến đời sống KT - XH.
2.2.5. Công nghệ hải dương
Biển chiếm 71% diện tích trái đất nhưng việc lợi dụng biển của loài người còn hết sức nhỏ bé. Cùng với sự tiến bộ của KHCN, con người đã dần dần coi trọng việc khai thác và sử dụng biển. Xem xét tình hình hiện nay thì thấy rằng công nghệ hải dương đã bao gồm rất nhiều lĩnh vực chuyên môn như: Năng lượng biển, nuôi trồng hải sản, khai thác khoáng sản biển, làm nhạt nước biển, hoá chất biển... Trong đó ngành khai thác khoáng sản biển có triển vọng lớn rất hấp dẫn.
2.2.6. Công nghệ vũ trụ.
Công nghệ vũ trụ bao gồm việc nghiên cứu và chế tạo các thiết bị máy móc cho việc bay vào vũ trụ như: Vệ tinh nhân tạo, phi thuyền chở người, phóng tên lửa... Cũng bao gồm việc sử dụng các lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào vũ trụ như: Khí tượng, tài nguyên, khoa học đời sống... Về mặt thông tin truyền dẫn, việc sử dụng kỹ thuật không gian càng tương đối rộng rãi. Do khoảng không vũ trụ có những điều kiện hết sức đặc biệt như: Độ chân không rất cao; trọng lực cực nhỏ, vô trùng... nên có thể chế tạo ở đó những sản phẩm mà trên trái đất không thể chế tạo được: Sản phẩm có độ sạch cao, vật liệu siêu dẫn, tinh thể thuần khiết... 
2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về khoa học và công nghệ.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của KHCN trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc. Các quan điểm của Đảng về KHCN được thể hiện cụ thể và phát triển qua mỗi thời kỳ, nhằm giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng, đồng thời XD tiềm lực khoa học cho những bước phát triển kế tiếp của đất nước. Cho đến nay, hệ quan điểm đó đã phát triển qua 5 thời kỳ.
2.3.1. Thời kỳ 1945 - 1954:
Ngay sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước VNDCCH đã phải đương đầu với vô vàn những khó khăn nghiêm trọng: Kinh tế kiệt quệ, văn hoá GD hết sức lạc hậu, thù trong giặc ngoài âm mưu bóp chết nền cộng hoà non trẻ và xâm chiếm nước ta một lần nữa. Trong tình thế hiểm nghèo ấy ĐCSVN đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân vận động một phong trào toàn dân chống nạn thất học, coi "Chống giặc dốt" là một trong 3 nhiệm vụ lớn của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhận rõ vai trò của kiến thức trong việc bảo vệ độc lập dân tộc và kiến quốc, ĐCSVN đã tỏ ra quan điểm quý trọng và xác định đúng đắn vị trí trí thức trong XH mới, trong nước Việt Nam mới "Trí thức là vốn quý của một dân tộc, không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp XD một nước Việt Nam mới không hoàn thành được".Do đó Chính phủ đã tuyển chọn và gửi đi đào tạo một lực lượng khá đông cán bộ khoa học. Năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, lớp cán bộ khoa học đầu tiên lần lượt trở về và cùng với lớp trí thức tham gia kháng chiến phục vụ công cuộc khôi phục và XD đất nước.
2.3.2. Thời kỳ 1954 - 1964.
Hoà bình lập lại năm 1954, đất nước tạm chia làm 2 miền. Miền Bắc bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế và bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lần đầu tiên trong văn kiện của ĐCSVN khẳng định vai trò của KHCN trong sự nghiệp XD đất nước "Khoa học và kỹ thuật là một điều kiện không thể thiếu được trong công cuộc XDCNXH". Tháng 9-1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết định "Đưa miền Bắc tiến lên CNXH có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến". 
Phát triển luận điểm của Đại hội lần thứ III, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 10 đã chỉ rõ: "Chúng ta phải đẩy mạnh cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng văn hoá và tư tưởng. Các mặt nói trên phải đồng thời được tiến hành, không thể xem nhẹ một mặt nào, song phải tập trung sức đẩy mạng cách mạng KHKT là then chốt, nhằm từng bước trang bị cơ khí và nửa cơ khí cho các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành sản xuất chủ yếu, tiếp tục XDCSVC và kỹ thuật của CNXH". Trong vòng 10 năm (Kể từ khi hoà bình lập lại năm 1954), trên mặt trận khoa học và công nghệ, một loạt tổ chức khoa học được thành lập từ Uỷ ban khoa học Nhà nước đảm nhận chức năng quản lý đến các cơ sở nghiên cứu và đào tạo đại học nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế và XH do Đảng vạch ra.
2.3.3. Thời kỳ 1965 - 1975
Tháng 2/1967 trong lúc chiến tranh phá hoại ác lịêt đang diễn ra ở miền Bắc, Ban bí thư TW Đảng ban hành Nghị quyết 157-NQ/TW "Về tăng cường công tác khoa học và kỹ thuật trong tình hình và nhiệm vụ mới". Nghị quyêt nhấn mạnh: "Để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, nền kinh tế miền Bắc nước ta phải đảm bảo những yêu cầu của chiến đấu, của đời sống nhân dân và không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng... Một trong những biện pháp quan trọng là đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật trong thời chiến. Vì vậy, cần động viên lực lượng hiện có về khoa học và kỹ thuật của chúng ta để phục vụ cuộc cách mạng KHKT trong thời chiến. Ban bí thư nhận định: "Khả năng trước mắt về khoa học và kỹ thuật của ta còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng kỹ thuật ấy, và tích cực chuẩn bị để phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trên quy mô lớn với trình độ cao và trong phạm vi cả nước sau khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc thắng lợi".
2.3.4. Thời kỳ 1975 - 1985
Ngày 20/4/1981 Bộ Chính trị có Nghị quyết 37-NQ/TW về chính sách khoa học và kỹ thuật, trong đó thể hiện một quan điểm: "Cần khẳng định rằng trong điều kiện kinh tế càng khó khăn, trình độ kỹ thuật của sản xuất càng thấp kém, thì càng phải chú trọng đầu tư cho các hoạt động khoa học và kỹ thuật, cho công tác đào tạo cán bộ khoa học và công nhân kỹ thuật - Chính đó là con đường góp phần nhanh chóng nâng cao năng suất lao động XH và giải quyết triệt để những khó khăn trong sản xuất và trong nền kinh tế hiện nay".
Tháng 3/1982 Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu rõ phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và XH năm 1981 - 1985, trong đó nhấn mạnh: "Trước hết khoa học và kỹ thuật phải phục vụ tốt nhất cho việc đưa nông nghiệp một bứơc lên sản xuất lớn XHCN trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý". Đối với nhiệm vụ lâu dài của khoa học và công nghệ Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng đã chỉ ra: "XD từng bứơc nền khoa học và kỹ thuật tiên tiến của nước CHXHCNVN có cơ cấu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và XH, có khả năng giải quyết những yêu cầu trước mắt và những mục tiêu lâu dài của nền sản xuất, đời sống và quốc phòng, đón trước và mở ra cho nền kinh tế và XH những phương hướng phát triển mới, chú trọng phát triển những ngành khoa học và kỹ thuật gắn liền với thế mạnh về tài nguyên, điều kiện nhiệt đới và con người Việt Nam.
2.3.5. Thời kỳ 1986 đến nay.
Sau hơn 10 năm thông nhất đất nước nền kinh tế XH gặp nhiều khó khăn do cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Đại hội lần thứ VI của ĐCSVN tháng 12/1986 đã mở ra một bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh tế với nội dung chủ yếu là chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCH. Đại hội khẳng định khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và chỉ rõ phương hướng hành động "Nhằm trước hết phục vụ cho 3 chương trình mục tiêu": Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tháng 

File đính kèm:

  • docT088.doc