Một số bài văn mẫu lớp 9

 1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

 Ðồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Ðồng chí.

 Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in vào báo Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tải sản chung của mọi người.

 Ðồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người và người trong cách mạng và kháng chiến. "Ðồng chí" trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi lý tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung t/cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?

 Ðể làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ ngữ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép "lạ hóa". Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Ðây là lời của những người đồng chí tự thấy cái mới lạ của mình:

 Quê hương anh nước mặn đồng chua

 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

 Anh với tôi hai người xa la

 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

 Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du đất ít hơn sỏi đá. Những con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hẹn hò quen nhau. ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỷ:

 Súng bên súng đầu gác bên đầu

 Ðêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

 

doc25 trang | Chia sẻ: minhanh03 | Lượt xem: 1063 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số bài văn mẫu lớp 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
 “Từ hồi về thành phố...
 như người dưng qua đường”
 Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người.
Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải đối mặt:
 “Thình lình đèn điện tắt...
 đột ngột vầng trăng tròn”
 Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
 “Ngửa mặt lên nhìn mặt
 như là sông là rừng”
 Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
 “Trăng cứ tròn vành vạnh
 kề chi người vô tình
 ánh trăng im phăng phắc
 đủ cho ta giật mình”
 Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người. 
 “Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
 6. Phân tích bài thơ : Mùa xuân nho nhỏ
 Giây phút đầu tiên khi năm mới gõ cửa, hãy hòa mình vào những vẻ đẹp của mùa xuân qua bài thơ “Mùaxuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải - Mùa xuân đã về trên đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta. Đâu đây dặt dìu lời ca êm dịu : Mọc giữa dòng sông xanh
 Một bông hoa tím biếc...
 Tôi đưa tay tôi hứng
 Mùa xuân xứ Huế thơ mộng hiển hiện trước mắt ta. Chỉ một bông hoa tím mỏng manh, mọc giữa dòng sông Hương xanh biếc mà sao sức sống lại dồi dào mãnh liệt đến vậy ? Và cũng chỉ một con chim chiền chiện cất lời, mà sao tiếng hót vang xa bay bổng đến thế ? Từng giọt âm thanh tiếng chim thả vào không gian, hội tụ tất cả ánh sáng, sự thanh khiết trong lành của đất trời mùa xuân nên nó cứ long lanh, long lanh. Không cầm lòng được, nhà thơ bất chợt đưa tay ra hứng lấy âm thanh ấy, những mong nắm bắt điều diệu kỳ của thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương. Sự chuyển đổi cảm giác trong ông diễn ra thật nhanh chóng, bất ngờ, mà cũng thật tinh tế. Rồi ông đưa mắt nhìn những chồi non lộc biếc đậu trên vành lá ngụy trang của người ra trận, trải dài theo bước chân người ra đồng, trên khắp đất nước mình. Mặc dù chúng ta vừa ngưng nghỉ tiếng súng ở hai đầu biên cương. Mặc dù thời bao cấp vẫn in hằn dấu vết trong mỗi gia đình Việt Nam. Nhưng thành quả chiến đấu và lao động suốt 4.000 năm lịch sử đã ngời ngời trong mùa xuân 1980 ấy: 
 Đất nước như vì sao
 Cứ đi lên phía trước
 Bằng sự mẫn cảm, bằng niềm tin son sắt, Thanh Hải đã nhận ra sức sống bền bỉ và tư thế luôn vững vàng thăng tiến của dân tộc ta. Đến hôm nay, mùa xuân 2006 đã về, ta càng khẳng định rằng điều Thanh Hải dự báo từ 26 năm trước đã, đang và mãi mãi là hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Đáng trân trọng biết bao, tấm lòng của một người con đất Việt ! Khi đang lâm bệnh nặng, sắp từ giã cõi đời, còn phải sống trong thiếu thốn khó khăn, ông vẫn có những cảm nhận vô cùng tươi trẻ về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống. 
 Từ niềm say sưa trước mùa xuân thiên nhiên và cuộc sống trên đất nước, Thanh Hải đã chân thành bộc lộ ước nguyện của bản thân: Ta làm con chim hót....
 Dù là khi tóc bạc.
 Tuy đó là ước nguyện khiêm nhường, muốn hóa thân làm những thứ bé nhỏ : Một con chim, một cành hoa, một nốt trầm, một mùa xuân nho nhỏ để “lặng lẽ dâng cho đời”. Nhưng đó là ước nguyện rất tự nhiên, đẹp đẽ, sáng trong như thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng (con chim, cành hoa), rất bền bỉ, thiết tha Dù là tuổi hai mươi 
 Dù là khi tóc bạc.
 Đó cũng là ước nguyện hết sức chân thành của Thanh Hải. Bởi vì cả cuộc đời ông đã bám trụ ở quê hương (vùng Thừa Thiên Huế) cùng đồng bào, đồng chí đánh giặc qua hai cuộc kháng chiến ác liệt trường kì. Từ vùng đất này, những bài thơ “Mồ anh hoa nở”, “Cháu nhớ Bác Hồ” của ông đã có sức lay động sâu xa tâm hồn bao bạn đọc. Rồi đến giờ phút cuối cùng, ông vẫn như con tằm rút ruột nhả tơ, dâng cho đời “mùa xuân nho nhỏ” thiết tha nồng thắm từ đáy tâm can. Những “nốt trầm” ấy sao mà “xao xuyến”, sao mà đắm say!
à bạn ơi, bạn có thấy Thanh Hải đã nói hộ chúng ta ước nguyện của mỗi người bằng cách chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” đó không?
 Bài thơ của Thanh Hải đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Sống có ích, sống đẹp là có cống hiến cho đời. Vậy mà nó không hề khô cứng như lời giáo huấn đạo lý. Bởi vì, tác giả đã nói bằng cảm xúc thực, bằng những điều tâm niệm chân thành, thiết tha, bằng giọng thơ nhẹ nhàng và hình ảnh thơ bình dị. Chính vì thế những dòng thơ của ông thấm sâu vào lòng người, thức tỉnh những ước nguyện, những cách sống đẹp của mỗi con người.Mùa xuân nay đi trong dìu dặt lời ca : 
 Mùa xuân ta xin hátdặm tình...
 Ta lại thấy nhớ Thanh Hải - nhớ một “Mùa xuân nho nhỏ” của dân tộc VN thiết tha!
 7. Phân tích bài thơ : Sang thu-Hữu Thỉnh
 Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc 1 cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" đc ông sáng tác cuối năm 1977.
 Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trườc cảnh đất trời đanmg chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu. Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng 

File đính kèm:

  • docMOT SO BAI VAN MAU LOP 9.doc