Giáo Trình Nhập Môn Xã Hội Học

Xã hội học có nguồn gốc từ lâu nhưng nó chỉ trở thành một môn khoa học độc

lập vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX,nó gắn liền với tên tuổi của nhà Xã

hội học là A.Comte (19-1-1798 - 5-9-1875) . Ông là một nhà Toán học, Vật lý học,

Thiên văn học, Xã hội học tư sản, Triết họcduy tâm chủquan Pháp. Từ 1817-1824,

ông là thư ký riêng của Xanh Ximông, là một trong những người sáng lập ra “chủ

nghĩa thực chứng”, Vào năm người năm 1836Ong đã đưa ra thuật ngữ “Xã hội

học”.

Thuật ngữ “xã hội học” bắt nguồn từ chữ Latinh Societas (xã hội) và chữ

Logos (học thuyết) trong tiếng Hy Lạp được ghép lại thành Sociology, với nghĩa

chung nhất là Xã hội học và đã được ông định nghĩa là “ Nghiên cứu thực chứng

toàn bộ cácquy luật cơ bản của các hiện tựơng xã hội “

Trong Triết học thực chứng của A.Comte đòihỏi phải tôn trọng các sự kiện,

phải tin tưởng các tri thức thực chứng; ông yêu câu phải áp dụng các kiến thức

chính xác do khoa học tự nhiên mang lại, đồngthời, phải luôn đặt mọi sự nghiên

cứu trong mối quan hệ ràng buộc với sự giải thích tổng thể.

Bên cạnh những lập luận khoa học mới , A.Comte vẫn còn những hạn chế nhất

định trong thời đại mình đó là còn mang nặmg yếu tố duy tâm .

Tuy nhiên, những cống hiến của ông cho một ngành khoa học mới, các nhà

khoa học sau này đã suy tôn A.Comte như là ông tổ -Người đặt nền móng xây

dựng nên Xã hội học hiện đại. Cụ thể là A.Comte là người sáng lập ra xã hội trên

cơ sở “tách” tri thức xã hội học ra khỏi Triết học xã hội

pdf71 trang | Chia sẻ: honglan88 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo Trình Nhập Môn Xã Hội Học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùc khu 
nhà tập thể, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cơ quan, trường học  Đã có một bộ phận 
quan trọng các khách hàng thuộc các khu vực khác, các tổ chức tư nhân, cá nhân có 
nhu cầu đến với nhà quy hoạch và xây dựng đô thị. 
 Nhân tố xã hội đáng quan tâm nhất lúc này là: Trong các đô thị đã hình thành 
nên một lớp người giàu có. Họ có khả năng xây, tậu những công trình lớn, có khả 
năng hoạt động và chi phối thị trường nhà đất, bất chấp người nghèo. Họ cũng chi 
phối cả lực lượng thiết kế, xây dựng theo ý muốn của họ và vì thế rất dễ vi phạm các 
nguyên tắc, tiêu chuẩn của công tác quy hoạch đô thị. Mặt khác, vẫn còn tồn tại một 
nhóm người nghèo không thể đủ điều kiện để cải thiện cư trú vốn rất tồi tàn của họ. 
Vì thế, họ sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn do giá đất, giá nhà ngày một 
tăng vọt và nhu cầu của cuộc sống cũng ngày một nâng cao. Kết qủa là không tránh 
khỏi tồn tại các khu nhà ổ chuột bên cạnh các biệt thự, khách sạn sang trọng mà 
không thể dễ dàng giải tỏa, quy hoạch lại được. 
 Công tác cải tạo ( tu bổ) đô thị cũng sẽ gặp phải một thách thức cần giải quyết 
có liên quan tới sự phân tầng xã hội là: thực tế, do sự phát triển tự phát trên một địa 
bàn cư trú hẹp ( ở một phố, một dãy phố, một lô nhà) thường sống xen kẽ người giàu, 
kẻ ngèo. Quy hoạch cải tạo một địa bàn như vậy không dễ dàng có được sự thỏa 
thuận mang tính pháp lý với dân cư sở tại do bởi họ rất khác nhau về lợi ích và khả 
năng cùng tham gia với chính quyền và nhà quy hoạch. Người nghèo thì chẳng có gì 
và cũng chẳng quan tâm đến việc cải tạo vì họ biết không thể có tiền. Trong khi 
người giàu sẵn sàng chi một khoản tiền lớn để cùng với Nhà nước, xây dựng lại cơ sở 
hạ tầng kỹ thuật của khu ở. Trong trường hợp này ai lợi, ai thiệt, thì vai trò của Nhà 
nước, của nhân dân, của mỗi nhóm xã hội đều phải được tính đến, và phải tính toán 
cẩn thận mới có thể đạt được hiệu qủa kinh tế – xã hội – môi trường. Đó là một điều 
thực tế. 
 Kết qủa nghiên cứu sự phân tầng xã hội đã cho thấy ở các nhóm ( tầng) trong 
tháp phân tầng xã hội, dân cư đã biểu thị những thái độ khác nhau đối với các chính 
sách kinh tế – xã hội. Trong số các chính sách này, có các chính sách cụ thể, có liên 
quan đến công tác quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị. Biết được thái độ của tầng 
nhóm xã hội ( giàu – nghèo – trung bình ) là cần thiết cho các nhà quy hoạch định 
chính sách để quy hoạch đô thị. Thí dụ, cụ thể là thái độ của các nhóm dân cư đối 
với chính sách nhà ở hiện nay, nên chủ trương và chính sách luôn cần được điều 
chỉnh cho phù hợp với thực tế. Các thông tin về sự phân tầng xã hội và thái độ của 
Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử 
Nhập môn xã hội học - 35 - 
dân cư đối với các chính sách, vì vậy có quan hệ mật thiết cho các nhà quản lý, lập 
chính sách, quy hoạch đô thị. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ta 
thấy có xu hướng những người nghèo ở các khu trung tâm bán nhà ( đất) và chuyển 
ra các khu khác, gần ngoại thành ( nơi giá đất, giá nhà rẻ hơn). Nó được xem là một 
quá trình mang tính quy luật trước khi có có xu hướng ngoại ô mạnh mẽ như ở các 
nước phát triển. Trong một khía cạnh nào đó, tình trạng này đôi khi góp phần giảm 
bớt khó khăn về nơi ở cho người nghèo, vì chắc chắn là khoi thay đổi chỗ ở, nơi ở 
của họ đều đạt được một sự cải thiện nào đó ( sau khi nhường lại giá trị kinh tế của 
nơi ở cũ cho người giàu). Các chính sách hiện nay về mua bán nhà ở đang được tạo 
điều kiện cho hoạt động này; song mặt khác, cũng còn vô số khe hở cho thị trường 
kinh doanh, địa ốc “ ngầm” hoạt động và lũng đoạn. 
 Ngoài ra khi nghiên cứu về đô thị hiện nay cần chú ý một số chủ đề như : 
Hiện tượng cư trú tách biệt,trẻ em lang thang đường phố ,bạo lực ở đô thị, sự phân 
tầng trong quá trình đổi mới,tác động của đô thị hóa đối với các vùng phụ cận.. 
Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử 
Nhập môn xã hội học - 36 - 
CHƯƠNG II: XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN 
I. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội học nông thôn 
1. Đối tượng nghiên cứu 
 1.1. Khái quát lịch sử hình thành
 XHH Nông thôn là một ngành khoa học quan trọng trong XHH. 
Người ta cho rằng vào năm 1907 Tổng thống Roosevelt Theodore (1858-1919 
) đã ra một quyết định thành lập “ Ủy ban đời sống nông thôn” nhằm tập trung 
nghiên cứu các vấn đề của xã hội nông thôn như sự suy sụp của xã hội nông thôn 
My õđang trong giai đọan suy thóai (1890-1920),những vấn đề của đời sống nông 
thôn, tình trạng lệch lạc tâm lý trong đời sống nông thôn . Các báo cáo,các thông tin 
thu thập được tạo cơ sở đầu tiên cho việc hình thành XHH nông thôn. 
Ủy ban đời sống nông thôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Dean Bailey một 
học giả xuất sắc về nghiên cứu nông thôn. Oâng đã tiến hành phát 500.000 bản hỏi tới 
người nông dân và những người phụ trách nông thôn (sau thu về 100.000 bản) với 
mục đích phân tích , dự báo sự sai lệch và biến dạng của xã hội nông thôn. Bản báo 
cáo này trở thành Hiến Chương XHH nông thôn. 
Hàng lọat các công trình nghiên cứu như :“Một thị trấn Hoa Kỳ”ø của 
J.M.Williams, “Đồi Quaker” –Warran Wilson,Làng Hoosier-Newell Sims.là những 
công trình điển hình về nông thôn Mỹ, đây là những tài liệu thống kê, mô tả,lịch sử, 
cùng với nó là những kỹ thật phỏng vấn điền dã. Những tài liệu này trở thành các 
giáo trình giảng dạy tại đại học Columbia. 
1.2. Đối tượng nghiên cứu
Xã hội học nông thôn là một chuyên ngành của xã hội học. Phạm vi nghiên cứu 
của nó được xác định theo lát cắt lãnh thổ. Vì thế, khách thể nghiên của xã hội học 
là toàn bộ xã hội học nông thôn. Xã hội học nông thôn với nghĩa rộng, cũng là khách 
thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, tham gia 
nghiên cứu xã hội học nông thôn, xã hội học lấy các hiện tượng xã hội, các vấn đề 
xã hội và các quá trình xã hội học nông thôn làm đối tượng nghiên cứu của mình. 
Để đi đến làm rõ đối tượng xã hội học nông thôn cần hiểu dược nông thôn và xã 
hội học nông thôn. 
a) Nông thôn 
Nông thôn là một khu vực lãnh thổ cư chủ yếu của những người làm nông nghiệp 
và những nghề khác có liên quan trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và cư dân sống 
ở nông thôn. Mật độ cư dan ở nông thôn không cao, nhưng kết cấu hạ tầng kém tiện 
nghi. Tất nhiên tất cả những chỉ báo phản ánh các nội dung trên chỉ tương đối ổn 
định và chịu sự chi phối của những biến đổi trong lịch sử, chính trị, kinh tế của mỗi 
quốc gia và khu vực. 
b) Xã hội nông thôn 
Thông thường khi xác định xã hội nông thôn, người ta vẫn lấy xã hội học đô thị 
để so sánh sự khác biệt, đối lập, nhằm tìm hiểu các đặc trưng, tính chất của nó. Từ 
Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử 
Nhập môn xã hội học - 37 - 
góc độ kinh tế, người ta thường khái quát xã hội học nông thôn là xã hội nông 
nghiệp; từ góc độ chính trị - xã hội người ta thường khái quát đó là xã hội có giai cấp 
nông dân chiêms ưu thế. Trong xã hội nông thôn có tính tự quản cộng đồng cao, 
nhưng còn nặng về vấn đề gia trưởng. Xem xét về góc độ phát triển kinh tế - xã hội, 
thì ở nông thôn còn phát triển chậm và lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém tiện nghi. Từ 
góc độ văn hoá, thì ở đó có nền văn hoá dân gian truyền thống chiếm ưu thế. Từ góc 
độ văn hoá, thì ở đó có nền văn hoá dân gian truyền thống chiếm ưu thế. Từ góc độ 
pháp luật, thì ở nông thôn lệ làng vẫn tồn tại song song với phép nước và luật pháp 
v.v.. 
Trên cơ sở thừa kế những kết quả nghiên cứu cuă những ngành khoa học khác, 
và bổ sung những yếu tố đặc trưng của nông thôn nhìn từ góc độ xã hội học,ta có thể 
hiểu xã hội nông thôn như sau: 
Xã hội nông thôn là một tập thể có tổ chức gồm những người cùng sống với nhau 
ở nông thôn, hợp tác với nhau thành các đoàn thể (đơn vị xã hội) để thoả mãn các 
nhu cầu xã hội cơ bản; cùng chia sẻ một nền văn hoá chung và hoạt động như một 
xã hội riêng biệt. 
1.3. Phương pháp nghiên cứu xã hội học nông thôn
Là một chuyên ngành của xã hội học nên xã hội học nông thôn đã sử dụng các 
phương pháp nghiên cứu xã hội học nói chung. Các đặc trưng riêng (nếu có) chỉ là 
việc vận dụng các phương pháp chung đó trong nghiên cứu xã hội học nông thôn thế 
nào cho phù hợp với yêu cầu và đối tượng nghiên cứu. 
II. NHỮNG NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN 
1. Cơ cấu xã hội nông thôn 
a) Cơ cấu xã hội giai cấp và phân tầng xã hội ở nông thôn 
- Cơ cấu xã hội giai cấp: cần tập trung phân tích cơ cấu giai cấp ở nông thôn. 
Bao gồm giai cấp địa chủ, trung nông, bần nông 
 - Sự phân tầng thu nhập và mức sống ở nông thôn 
Phân tầng thu nhập là hiện tượng xã hội mang

File đính kèm:

  • pdfGT_xahoihoc_2248 ĐH Đà Lạt.pdf