Đề tài Một số kinh nghiệm soạn giáo án điện tử bằng phần mềm Microsoft Powerpoint

Từ năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo tiến hành đổi mới chương trình giảng dạy, đổi mới sách giáo khoa để đáp ứng nhu cầu giáo dục phổ thông và sự phát triển của xã hội trong giai đoạn mới. Sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa lần này đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Vấn đề cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động đọc – chép để hình thành năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực thích ứng cho học sinh; hình thành những kỉ năng cần thiết như kỉ năng vận dụng kiến thức, kỉ năng nghiên cứu khoa học

doc30 trang | Chia sẻ: maika100 | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm soạn giáo án điện tử bằng phần mềm Microsoft Powerpoint, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất, màu sắc sử dụng cần hài hoà, phù hợp tâm lý học sinh và nội dung bài giảng. Màu sắc của hình nền và chữ viết cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng. Bản thân tôi thì thích dùng kiểu nền sậm (xanh dương hay xanh lá cây đậm) và chữ màu trắng vì kiểu này nó quen thuộc với hình ảnh “bảng xanh, phấn trắng” mà học sinh thường được thấy theo kiểu dạy truyền thống.
	Thứ hai, về cỡ chữ khi trình chiếu: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem trong một phòng học thông thường thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 20 trở lên. Đối với học sinh thì trong một phòng học như thế những em cuối lớp vẫn có thể đọc tốt cỡ chữ 18 nhưng các giáo viên lớn tuổi dự giờ thì chỉ thấy “mờ mờ”. Do vậy khi muốn lưu giữ lại nội dung bài giảng hay chứa đựng nhiều thông tin, chúng ta có thể giảm size chữ xuống đến 18 ở những nội dung đã giảng xong.
Thứ ba, về cách trình bày: bản thân tôi thường chỉ chọn kiểu trình bày title and 2 – column text vì cách trình bày như thế này rất giống với trình bày bảng truyền thống, nó giúp chúng ta giữ được nội dung bài giảng và giúp HS ghi bài. Trong đó những nội dung học sinh ghi bài được viết ở nửa phần bên trái còn nửa phần bên phải được sử dụng để giảng bài: trình bày hình ảnh, bản đồ, video clip, đặt câu hỏi khi đàm thoại, đưa bảng phụ khi yêu cầu hoạt động nhóm Bên cạnh đó, khi giáo viên trình chiếu PowerPoint, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng (giảng phần nào cho học sinh ghi phần đó). Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn. Cũng như khi viết bảng, tên bài học, các đề mục và các ý trọng tâm phải được giữ lại ở tất cả các slide. Tuy nhiên, ở những slide trình bày các câu hỏi thảo luận, các ví dụ, bài tập ... giáo viên có thể linh hoạt bỏ qua phần đó. Cách trình bày khoa học (gạch đầu hàng, các đề mục, gạch chân – tô đậm những ý cần nhấn mạnh) giúp học sinh dễ hiểu bài, các em sẽ hình dung được mình đang “ở đâu” trong bài học. Nhiều giáo viên khi soạn thường chỉ soạn theo từng phần ở mỗi slide, thậm chí có khi còn không có cả đề bài làm cho học sinh (có khi cả với giáo viên dự giờ) không biết là mình đang học bài nào, đang ở phần nào của bài học. Một điều cần lưu ý khác là giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống dưới, từ trái qua phải mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn hình. 
	Thứ tư là về font chữ: Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Times New Roman, Arial, Tahoma, VNI-Helve) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times) vì dễ mất nét khi trình chiếu. Tôi thích nhất sử dụng fon chữ Times New Roman vì kiểu chữ này chuẩn, đẹp, không bị mất nét khi chúng ta sao chép từ word sang Power point nên có thể sử dụng chức năng sao chép từ Word sang để giảm thiểu thời gian soạn. Đương nhiên, khi chúng ta muốn làm nổi bật một nội dung nào đó, chúng ta có thể chọn kiểu font chữ kiểu cách một chút như thư pháp chẳng hạn như cần tránh lạm dụng vì học sinh đọc không được lại phản tác dụng giáo dục.
	Thứ năm là cách xử lí hình ảnh: Các tranh vẽ SGK không phải bao giờ chúng ta cũng sử dụng hết mà có khi chỉ sử dụng một phần, có khi ta lại muốn sử dụng như tranh câm (không có chú thích). Muốn xử lí tranh theo những chủ ý như thế thì có rất nhiều cách nhưng theo tôi cách đơn giản nhất là xử lí theo phần mềm Paint. Nhắp chuột phải vào tranh muốn xử lí rồi chọn Open with paint, sau đó ta chọn chức năng cắt, xóa hay vẽ để xử lí thêm.
Mở ảnh bằng phần mềm Paint để xử lí.
Sử dụng nút xóa để bỏ phần chú thích, tạo tranh câm.
Sử dụng nút cắt để bỏ bớt những phần tranh vẽ không cần thiết, chưa sử dụng.
Thứ sáu, chọn hiệu ứng Whip hay Color Typewriter với tốc độ vừa phải (medium) ở phần nội dung ghi bảng để học sinh dễ ghi bài. Loại hiệu ứng này khi trình chiếu thì phần chữ chạy giống như ta viết bảng nên phù hợp với tâm lý học sinh. Cũng nên qui ước riêng với học sinh khi thấy nền xanh, chữ trắng và hiệu ứng Whip tức là nội dung các em cần ghi chép.
Phần nội dung ghi bảng nên chọn hiệu ứng Whip phù hợp với tâm lí học sinh.
Chọn hiệu ứng.
Cuối cùng là phần trang trí: Không quá lạm dụng phần trang trí lòe loẹt, hình ảnh động ngộ nghĩnh, gây cười làm học sinh phân tán, mất tập trung vào bài giảng. Hình ảnh, video hỗ trợ mang tính khoa học thì phải thật chính xác, rõ ràng, có tính sư phạm cao. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù rất hay nhưng mờ nhạt, mất nét không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta mong muốn. Những tranh không rõ ràng về nguồn gốc thì không nên sử dụng: ví dụ các tranh đã qua sử lí photoshop không phản ánh đúng thực tế thì không nên sử dụng vì như thế tức là giáo viên đã nói dối với học sinh. 
Những hình ảnh không rõ nguồn gốc, không phản ánh đúng bản chất khoa học thì không nên sử dụng.
Tránh trang trí lòe loẹt, quá nhiều hình ảnh động làm phân tán sự chú ý của học sinh.
3. Cách soạn các đơn vị kiến thức:
	Có rất nhiều cách soạn khác nhau nhưng riêng kinh nghiệm bản thân tôi thường chọn cách trình bày kiểu title and 2 – column text như trên rồi soạn thẳng nội dung vào nền mà không dùng text box. Sau đó, để chuyển sang nội dung tiếp theo ta chỉ cần copy slide trước rồi bỏ đi phần hiệu ứng (remove) để soạn slide sau: soạn mới nội dung, bỏ đi hình ảnh và câu hỏi không sử dụng nữa và tạo ra hiệu ứng khác. Cách soạn như vậy giúp ta giữ được nguyên vẹn phần bài giảng trước mà không sợ bị xê dịch khi chuyển sang slide mới. Khi bảng nhiều thông tin, ta mới chọn thêm phần text box để đặt câu hỏi phụ hoặc những phần cần có hiệu ứng riêng. Mặt khác, kiểu trình bày title and 2 – column text không những quen thuộc với học sinh, giúp các em ghi bài mà còn giúp chúng ta tiết kiệm thời gian trên lớp rất nhiều. Do chúng ta vẫn giữ lại được các phần nội dung bài học nên những học sinh ghi chậm vẫn có thể tranh thủ chép bài bất kì lúc nào mà ta không phải đợi cho học sinh chép bài xong rồi mới sang slide tiếp theo hay ngược lại vì ta sợ không kịp thời gian tiết học nên vội vã chuyển sang slide tiếp theo, bỏ mặc còn rất nhiều em chưa chép được nội dung bài học. Cách trình bày giáo án điện tử theo kiểu title and 2 – column text khắc phục được tình trạng học sinh không chép được bài khi học bằng giáo án điện tử.
4. Tùy chọn hiệu ứng cho phù hợp.
Việc tùy chọn hiệu ứng phù hợp không những làm cho giáo án chúng ta đẹp, thể hiện sự khoa học trong trình bày mà còn thể hiện cả nghiệp vụ sư phạm của chúng ta nữa. Việc xuất hiện câu hỏi nào trước câu nào sau, khi nào bản đồ xuất hiện hay mất đi khi không sử dụng nữa nếu được sắp xếp khoa học, có chủ đích sẽ tăng tác dụng lên rất nhiều. Ví dụ, những tranh vẽ không sử dụng nữa ta nên cho hiệu ứng mất đi (exit) để học sinh tập trung ghi bài chứ không phải “thảo luận” những vấn đề ngoài rìa của tranh vẽ đó. Hơn nữa, nếu ta biết phối hợp tốt việc lựa chọn các hiệu ứng có thể sẽ làm giảm đi số lượng slide rất nhiều từ đó giảm dung lượng cho tập tin. Những người mới soạn thường không biết phối hợp việc này nên số lượng slide rất nhiều, có khi lên đến trên 30 slide cho một giáo án điện tử, nhưng với những người soạn thành thạo, biết phối hợp tốt các hiệu ứng mỗi bài giảng thường sẽ không quá 15 slide.
5. Trình chiếu và giảng bài:
Nhiều giáo viên chưa thật nhuần nhuyễn về vi tính nên thường nhờ đồng nghiệp soạn giúp khi hội giảng, thao giảng. Giáo án được soạn thật hay, công phu tỉ mỉ nhưng khi trình chiếu và giảng dạy thì xảy ra hiện tượng thật buồn cười: lời giảng của giáo viên thuyết trình, giới thiệu đi một đàng còn hình ảnh, nội dung trình chiếu đi một nẻo không ăn khớp gì với nhau. Lý do là giáo viên không thuộc giáo án khi trình bày, không hề biết nội dung tiếp theo, hiệu ứng tiếp theo sẽ là gì nên nội dung và lời giảng không ăn khớp. Do vậy, muốn giảng thật hay bài giảng điện tử ngoài nghiệp vụ sư phạm ra còn đòi hỏi giáo viên phải thuộc giáo án mà mình chuẩn bị trình chiếu. Nếu không chúng ta sẽ bị động, lúng túng và bài giảng thất bại. Ngược lại, nếu chúng ta nắm vững bài giảng thì không những trình bày hợp lý, logic mà còn có thể thoải mái sáng tạo nhưng không sợ vượt quá giới hạn vì bài học đã được ‘đóng khung” sẵn.
6. Xây dựng thư viện và chia sẻ tư liệu cá nhân:
Để tiết kiệm thời gian soạn giáo án điện tử, một trong những yếu tố quan trọng là chuẩn bị đủ tư liệu cho bài giảng: tranh ảnh, phim khoa học, bản đồ, . trong thời gian ngắn nhất. Mà muốn làm được như vậy, không gì khác hơn là chúng ta sử dụng nguồn tư liệu có sẵn mà không phải chạy đôn, chạy đáo tìm kiếm mỗi khi soạn giáo án điện tử. Vậy làm thế nào để có nguồn tư liệu phong phú về nội dung, hấp dẫn về hình thức, chính xác, khoa học? Câu trả lời là mỗi chúng ta nên xây dựng một thư viện tư liệu riêng cho mình. Cách làm cũng khá đơn giản: Chúng ta lập một thư mục riêng trên ổ D rồi đặt tên là “Thư viện tư liệu” chẳng hạn, trong thư mục đó chúng ta lại lập những thư mục con nhỏ hơn rồi chứa các tư liệu có sẵn hay sưu tầm được vào đó, khi muốn sử dụng ta chỉ việc vào đúng thư mục đó mở ra là xong, khỏi phải mất công tìm kiếm. Ví dụ đối với bản thân tôi, tôi đã lập một thư mục như sau: Bên trong thư mục “Thư viện tư liệu” sẽ là 2 thư mục con “Hóa học” và “Sinh học”, bên trong từng môn như vậy sẽ là các thư mục “lớp 9”, “lớp 8”và thư mục “tham khảo”, bên trong mỗi lớp như vậy sẽ là các thư mục “bài 1”, “bài 2” khi muốn soạn giáo án điện tử Bài 1, môn Hóa học lớp 9, tôi 

File đính kèm:

  • docSKKN Mot so kinh nghiem soan giao an dien tu.doc